Egypt Israel Oct 2007




Bấm nút "Download Now"
để cài Windows Media Player. 
Windows Media Player 11
Download Now

Windows Media Download Center
 

Wednesday, June 15, 2005

RÚT KINH NGHIỆM LỊCH SỬ ĐỊNH HƯỚNG NHỮNG CHIẾN LƯỢC CHO TƯƠNG LAI

(Lessons from the Past, Strategies for the Future)

Hoàng Quý viết theo Lm. Manny Flores, S.J.

Lts. Trong chiều hướng thu thập các tài liệu mang tính chất Thần Học Giáo Dân, chúng tôi xin giới thiệu bài viết giá trị sau đây của Linh mục Manny Flores, Dòng Tên. Xin mời quý độc giả theo dõi.

Thật bất ngờ trong Đại Hội Canh Tân Đặc Sủng lần thứ 28 tại Anaheim Convention, Californa, Hoa Kỳ, tôi được tham dự bài thuyết trình của Linh mục Manny Flores, người Phi Luật Tân đang coi một giáo xứ 17.000 giáo dân, đồng thời cũng là một giáo sư Đại chủng viện, bàn về đề tài đầy thách thức và sôi bỏng này ở vào thời điểm mở đầu thiên niên kỷ thứ ba trong Giáo hội hoàn vũ. Tại giáo xứ rộng lớn này, linh mục Flores nhìn ra nhu cầu khẩn thiết cần phải đoàn ngũ hóa và tăng cường sức mạnh cho hàng ngũ giáo dân để nâng cấp tình hình sống đạo trong giáo xứ. Trong một giáo xứ hầu như toàn tòng là giáo dân, trong lúc hàng giáo sĩ trở thành quá ít ỏi đáp ứng cho các nhu cầu mục vụ, linh mục Flores đi tìm con đường sống cho giáo xứ của mình.

Và linh mục đã tìm ra cho đường đi cho giáo xứ: RÚT KINH NGHIỆM LỊCH SỬ, ĐỊNH HƯỚNG NHỮNG CHIẾN LƯỢC CHO TƯƠNG LAI. Rút kinh nghiệm qua những bài học lịch sử từ Giáo hội của Giao Ước Mới (Giáo hội Tiên khởi), rồi trải qua hai mươi thế kỷ và dừng lại tại Công đồng Vaticanô II, linh mục nhìn ra chiến lược của Giáo hội chính là cần phải đoàn ngũ hóa và tăng cường sức mạnh cho tầng lớp giáo dân. Hành trình này phải trải qua bốn giai đoạn như sau:



Sám hối và cầu nguyện theo tinh thần của Gioan Tiền Hô mở đầu cho triều đại mới của Đấng Cứu Thế: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1: 15).

Khơi động tinh thần canh tân, cải cách, đổi mới

Các tầng lớp trong Giáo hội phải sống tinh thần khiêm cung nhìn nhận mình là các tội nhân. Hãy nhìn gương Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thay mặt Giáo hội xin lỗi thế giới khoảng 100 lần về các lỗi lầm của Giáo hội trong lịch sử.

Hãy chỗi dậy sống trong niềm tin và tín thác nơi Thiên Chúa.


Bài thuyết trình của linh mục Flores được phổ biến với bốn trang giấy mầu và mỗi trang được trình bầy thành ba cột thật tổng hợp và súc tích. Vì hạn chế của bài viết, chúng tôi chỉ trình bầy những điểm chính đã được linh mục Flores trình bầy và chúng tôi ghi thêm ít hàng suy diễn đã được đánh động từ bài thuyết trình này. Bài thuyết trình được chia thành 10 thời kỳ như sau:


1/ Giáo hội Tân Ước (New Testament Church từ năm 33-100).

Đây là Giáo Hội Chúa Kitô thành lập và Chúa Thánh đến khởi động. Qua phép rửa, mọi tín hữu đều đạt tới chỗ hoàn toàn xứng đáng (full dignity) trở nên môn đệ Chúa Giêsu, dưỡng tử của Chúa Cha, đền thờ Chúa Thánh Linh, phần tử của Giáo hội là Thân Thể Chúa Kitô và là Dân Chúa. Với những tư cách đó, mọi tín hữu đều được mời gọi sống thánh thiện, đều được kêu mời vào làm mục vụ, tức làm vườn nho của Chúa tùy theo nhu cầu, các đặc sủng và truyền thống. Vào thế kỷ đầu tiên của Giáo hội này, chưa có một hàng rào nào phân cách giữa giáo sĩ và giáo dân.

Các tông đồ hoặc các cộng tác viên của các ngài chính là những người mang trong mình đầy sủng lực như lời Chúa Giêsu đã hứa khi thăng thiên: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8).

Quả thực sau khi đã nhận lãnh được tràn đầy Thánh Thần, các tông đồ mạnh dạn và phấn khởi túa ra tứ phía lên đường làm chứng tá cho Tin Mừng và Chúa Kitô Phục Sinh. Từ lời rao giảng cho tới phong thái của các ngài toát ra sủng lực của Thần Khí, khiến những ai đến nghe giảng giải hoặc tiếp xúc với các ngài đều được chữa lành và quay đầu trở lại với Thiên Chúa. Quyền năng và sức mạnh của các ngài không do phong chức hoặc bổ nhiệm, nhưng do Thánh Thần tràn đầy trong các ngài.

2/ Các Thế kỷ tiên khởi (Early Centuries từ 100-300)

Đây là thời kỳ của các Giáo phụ nổi bật với các tên tuổi như Polycarp, Inhatiô Antiokia, Thánh Antôn. Các Giáo phụ nhấn mạnh đến căn tính và xứng đáng (dignity & identity) của mọi Kitô hữu: “Là một tín hữu đã nhận phép rửa, các con hãy nhớ mình thuộc phần tử của Thân Thể nào?” và đến việc mỗi người cần được biến đổi (transformation): “Ngài đã trở thành con người để chúng ta có thể trở thành linh thánh.”

Danh từ giáo sĩ (kleros) chỉ được sử dụng từ năm 200, còn danh từ giáo dân (laicus) thỉnh thoảng được sử dụng từ sau năm 220. Danh từ tư tế được hiểu như linh mục, bắt đầu được sử dụng trong các cộng đoàn nhỏ. Vào thời kỳ này Giáo hội đang bị coi là bất hợp pháp, bị hành hạ và thường dẫn đến tử đạo.

3/ Giáo hội do Giáo sĩ Chuyên chế (Clerical-Imperial Church từ 300-450)

Vào thời Hoàng đế Constantinô, qua sắc chỉ Milan năm 313, Giáo hội được hợp thức hóa sau 300 năm bị bách hại và khi đó Giáo hội Kitô giáo trở thành một xã hội lý tưởng. Nhiều người tin theo Kitô giáo và tới thời hoàng đế Thêôđôsiô I, năm 395, Kitô giáo trở thành Quốc giáo. Hàng giáo sĩ, nhất là các giám mục trở nên như các quan chức trong các cấu trúc chính quyền. Tiếng Latinh trở thành ngôn ngữ chính thức quốc gia Roma. Giáo hội lệ thuộc quốc gia và đôi khi còn hy sinh các lợi ích linh thiêng cho các mục tiêu cai trị.

Vào thời điểm này khẩu hiệu Một Đế quốc, Một Tôn Giáo được coi như một đòi hỏi của Thánh Kinh. Tầng lớp Giáo sĩ vươn mình dậy nắm giữ cả hai quyền lực thần quyền và thế quyền trong tay đã đưa đến tình trạng tầng lớp Giáo dân bị hạ xuống đáy Giáo hội (left at the bottom) và giáo sĩ đi vào thoái hóa.

Từ những suy thoái chạy theo quyền lực và sống thế tục, Giáo hội xẩy ra nhiều tệ trạng khiến nhiều tín hữu tìm vào sống trong sa mạc. Nhiều người thành tâm nhìn ra Giáo hội đang trải qua một cơn bách hại mới do lối cai trị Giáo hội theo kiểu trần tục, đặc biệt Pachomius tổ chức các cộng đoàn ẩn tu. Các vị ẩn tu này ảnh hưởng được Giáo hội và nhiều vị trở thành giám mục và các nhà lãnh đạo thánh thiện.

4/ Đế quốc Rôma sụp đổ (Fall of the Roman Empire từ 450-800)

Giáo hội chuyên chế sụp đổ cùng với sự sụp đổ của Đế quốc Rôma. Từ đây phát sinh chủ nghĩa Giáo hội trở về sống lối sống khắc khổ (Monasticism) của các tu sĩ khổ tu với cao điểm là Thánh Bênêđictô tác động đến Giáo hội thật sâu rộng với chủ trương các tín hữu:


sống lối sống “vừa cầu nguyện vừa lao động”

thích nghi theo lối sống nông thôn

tập trung thành các cộng đoàn cầu nguyện và tôn sùng Thánh Thể.


Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả thiết lập Thánh Thể như một khuôn mẫu cho lối sống tu trì và lối sống của các thầy dòng trở thành khuôn mẫu cho lối sống của hàng giáo sĩ cũng như cho những ai nắm giữ chức sắc lãnh đạo trong Giáo hội. Vào thời kỳ này, nhiều quốc gia Bắc Âu tin theo Kitô giáo nhờ các hoạt động của tầng lớp giáo dân như Olaf, Erich, Canute.

5/ Thánh Đế Quốc Roma và Giáo Hội Phong Kiến (Holy Roman Empire and Feudal Church từ 800-1000)

Năm 800 Hoàng đế Charlemagne của nước Pháp được phong làm hoàng đế đầu tiên của Thánh Đế Quốc Roma là người bảo vệ ngai giáo hoàng. Thế quyền và giáo quyền phối hợp, nối kết với nhau thành một tổ chức được coi như linh thánh (both seen as divinely instituted).

Từ đây hàng giáo sĩ bắt đầu coi mình đứng ở trên nấc thang cao nhất hoặc ngồi ở chiếu trên cao. Với đà tiến này, hàng ngũ giáo dân tụt thang dần đến nấùc thang thấp nhất , ngồi chiếu rốt bét. Ngay trong phụng vụ, giáo dân chỉ còn biết lắng nghe và theo dõi các nghi lễ phụng vụ bằng tiếng Latinh mà họ chẳng hiểu gì. Mọi chức vụ đều nằm trong tay hàng giáo sĩ và giáo dân chỉ còn là thành phần nghe dạ bảo vâng. Họ không được nắùm các chức vụ như lãnh đạo, giáo chức, thuyết trình viên hoặc giám đốc.


6/ Hàng ngũ giáo dân bắt đầu chỗi dậy (Beginning of the Rise of the Laity, từ 1000-1600)

Trước những suy thoái trầm trọng của hàng giáo sĩ khi tham gia vào cả hai quyền lực: thần quyền và thế quyền, Đức Giáo Hoàng Grêgoriô VII phải cố công cải cách hàng giáo sĩ. Trước tiên, ngài tấn công vào việc buôn bán chức sắc trong Giáo hội và cả các đồ thờ phượng nữa, kiểm soát chuyện phòng the giáo sĩ, chuyển tài sản cho con cái của giáo sĩ. Từ những suy sụp và thoái hóa này trong giới giáo sĩ, Đức Grêgoriô bắt buộc các giáo sĩ phải sống độc thân. Từ đây con đường canh tân triển nở với các dòng khổ tu nổi tiếng. Những trào lưu tu sĩ mới mọc lên xanh tươi trong Giáo hội nhất là các dòng khất thực của Thánh Phanxicô Assisi, Thánh Đaminh. Tất cả các dòng tu này chủ trương:


Rao giảng Tin Mừng bằng gương mẫu đời sống khó nghèo và hăng say lên đường loan báo Tin Mừng

Hướng về mục vụ hơn là cai trị trong Giáo hội bằng rao giảng Tin Mừng và chăm sóc đời sống tâm linh cho các tín hữu

Phát động các canh tân thần học, nhờ đó đã triển nở được những nhà thần học lừng danh.


Về phía giáo dân, người ta thành lập được những phong trào sống đời sống khó nghèo, những nhóm học hỏi Thánh Kinh để lên đường loan báo Tin Mừng, giảng dậy và hướng dẫn tu đức. Từ đây cũng phát sinh ra một số những trệch hướng và tà giáo. Rồi cao trào thập tự quân đã huy động được nhiều hiệp sĩ, nhiều nhà chỉ huy và nhiều chiến sĩ lên đường dành lại Đất Thánh. Nhờ đó vai trò của giáo dân được nâng cấp. Thêm vào đó, phát minh máy in cũng như cao trào kinh doanh đi tìm thuộc địa đã đưa địa vị người giáo dân không bị khinh thường như trước nữa.

7/ Cải cách và Công đồng Triđentinô (reformation & The Council of Trent, từ 1517 - 1563)

Đâu là những nguyên do cấu tạo nên cuộc Cải Cách của anh em Tin Lành:


Giáo triều thời Phục Hưng suy đồi và đánh mất nửa vương quốc Chúa Kitô

Cuộc ly dị giữa tu đức và thần học, giữa thần học và Thánh Kinh cũng như các Giáo phụ

Việc phân chia thành các quốc gia dẫn đến việc sống độc lập khỏi giáo triều

Giáo hội quá bị lệ thuộc vào nền văn minh Tây Phương

Các kinh nghiệm và tư cách vững vàng của Luther, Calvin, Zwingli

Công cuộc Cải Cách này di động theo nhiều phương hướng, nhưng đều chung một khuynh hướng là muốn xác quyết nhân cách của người giáo dân trong Giáo hội. Tuy thế, không phải khuynh hướng nào cũng chống giáo sĩ.

Sau đây là những yếu tố chính đẩy các nghị phụ khai mở Công Đồng Triđentinô:


Việc can thiệp của tầng lớp giáo dân trưởng giả vào các quyết định của các giám mục và các chủ chăn

Một số Nhà Cải Cách tấn công chức linh mục

Chủ nghĩa phong kiến vẫn còn chiếm ưu thế trong hệ thống giáo sĩ nắm lấy quyền hành và đặc ân.


Như vậy Công đồng Triđentinô nhấn mạnh đến việc bảo vệ chức linh mục và củng cố hệ thống hàng giáo phẩm từ ngôi vị giáo hoàng tới thầy sáu. Từ tầm nhìn thiếu quân bình này, hàng giáo sĩ được nâng cao, được bảo vệ và dĩ nhiên tầng lớp giáo dân bị hạ cấp và không được nhắc nhở gì đến trong các văn kiện Công Đồng. Chiến lược của Công đồng Triđentinô nhằm đào tạo hàng giáo sĩ cả về học vấn cũng như tu đức, trong lúc tầng lớp giáo dân bị thả nổi.

8/ Giáo hội sau Công đồng Triđentinô (The Church after Trent, từ 1563-1950)

Tầm nhìn thiếu quân bình của Công đồng Triđentinô được kéo dài đến giữa thế kỷ hai mươi và không ai dám bình phẩm. Giáo hội trở thành dị ứng và bảo vệ trước các đề tài như “chức linh mục của người giáo dân”, “mục vụ giáo dân”. Những ai đưa ra các đề tài này thường bị chụp mũ là theo chủ nghĩa Thệ Phản.

Việc tái khám phá Thánh Kinh tạo ra được một cải cách đáng kể trong Giáo hội. Cá nhân hoặc nhóm nhỏ chia sẻ Thánh Kinh, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, chứ không phải giáo sĩ, đã giúp người tín hữu được nuôi dưỡng tâm linh và phát triển kiến thức và cảm nghiệm Thánh Kinh, cũng như tăng gia niềm khao khát sống Lời Tin Mừng.

9/ Các Phong trào Giáo dân Công giáo và Công Giáo Tiến Hành (Catholic Lay Movements and Catholic Action (1800 -1963)

Được kể là Các Phong trào Giáo dân Công giáo tức là các phong trào do anh chị em giáo dân hình thành và thường không được hàng giáo phẩm chúc lành cũng như lãnh đạo. Thí dụ như các tổ chức các học giả, các liên minh thợ thuyền và doanh thương, các nhóm sắc tộc, cả trên bình diện địa phương cũng như quốc tế.


họ thường thuộc thành phần có ăn học và có tư cách muốn sống theo đường lối sống và hoạt động của Tin Mừng

đôi khi họ có những cảm nhận chống đối giáo sĩ. Nhưng chủ yếu các cao trào này phát khởi từ tình cảm muốn sống và hoạt động theo đường lối Tin Mừng. Yếu tố tích cực này đã đem nhiều người giáo dân sống nếp sống tâm linh sung mãn.


Công Giáo Tiến hành mang ý nghĩa “người giáo dân chia sẻ việc tông đồ của hàng giáo phẩm” hoặc đây là sự cộng tác, phối hợp tông đồ giữa hàng giáo phẩm và giáo dân.


các phong trào này chính thức được hàng giáo phẩm nhìn nhận và hướng dẫn

họ đi theo một đường lối tu đức và hoạt động phong phú và hữu hiệu trong môi trường họ sống.



Những phong trào này đã đưa đến một số tranh chấp giữa hàng giáo sĩ và giáo dân, do đó, qua sự can thiệp của một số giám mục và đức giáo hoàng, hàng giáo sĩ thắng thế. Thế là những cơ may thăng tiến giáo dân bị chận lại hoặc bị hàng giáo phẩm kiểm soát hoặc hạn chế. Có nhiều nơi, các đoàn thể mang danh là Công Giáo Tiến Hành chỉ là những đoàn thể đọc kinh hoặc phục vụ trong thánh đường dưới quyền điều động của linh mục.

10/ Công đồng Vaticanô II (The Church of Vatican II, từ 1962 - ngày nay?)

Đã từ lâu trước Công đồng Vaticanô II, hàng ngũ giáo dân hoàn toàn im lặng về các vấn đề liên quan đến thế đứng và vai trò giáo dân trong Giáo hội dưới ánh sáng Tin Mừng. Chính Công đồng Vaticanô II đã tung ra các chứng liệu chính thức nhìn nhận phong trào giáo dân đã tiến triển hàng ngàn năm nay rồi. Những văn kiện chính thức này không phải chỉ là những biểu hiện như những cái gật đầu, nhưng trái lại, đây là những văn kiện quan trọng làm khơi dậy tầm vóc của tầng lớp giáo dân.

Công đồng Vaticanô II dành hẳn một văn kiện bàn về giáo dân, đó là sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân (Apostolicam Actuositatem). Và trong lược đồ về Giáo hội tức Hiến chế Tín lý (Lumen Gentium), Công đồng dành hẳn chương bốn đề cập rất nhiều đến vai trò và vị trí của người giáo dân trong Giáo hội. Nhịp tiến của Giáo hội đã đẩy hàng ngũ giáo dân tiến lên phía trước như thế, tuy nhiên, sau Công đồng gần nửa thế kỷ rồi, tại nhiều địa phương vẫn còn duy trì vai trò độc tôn giáo sĩ và khinh thường giáo dân như trong thời phong kiến. Chúng ta nên nhớ Công đồng Vaticanô II mang một kích thước trọng yếu toàn cầu nhất lịch sử Giáo hội với sư tham dự của 2600 giám mục từ khắp thế giới về phó hội, trong lúc Công đồng Vaticanô I chỉ có 737 nghị phụ và Công đồng Triđentinô chỉ có dưới 40 giám mục và hầu hết là người Ý.

Các Giáo huấn của Công đồng Vaticanô II về Giáo Dân



1/ Giáo hội không còn đặc hữu đồng hóa hoặc ưu tiên là hàng giáo sĩ nữa.
Giáo hội chính là toàn thể Dân Chúa (GH, Ch. II). “Nhờ Phép Rửa, tất cả mọi người cùng chia sẻ vào mục vụ ba mặt của Chúa Giêsu Kitô là ngôn sứ, linh mục và vương giả. Tất cả những gì đã phát biểu liên quan đến Dân Chúa đều được áp dụng bình đẳng cho giáo dâm giáo sĩ và tu sĩ.” Thật vậy, hoạt động tông đồ chính là “việc tham gia vào sứ mệnh cứu độ của chính Giáo hội” (GH 30, 31).

2/ Mục vụ là việc phục vụ hơn là một địa vị.
Tất cả những gì là quyền hành của linh mục đều phải được đem vào phục vụ Dân Chúa, vì giáo sĩ cũng chỉ là một thành phần của Dân Chúa.

3/ Mục vụ không còn là một danh từ chỉ được xử dụng cho các linh mục.
Xưa kia từ ngữ hoạt động tông đồ được xử dụng cho mục vụ giáo dân. (GH 18; HN 2). Công đồng Vaticanô II cũng nhìn nhận các mục vụ phụng tự của những em giúp lễ, đọc sách thánh, ca đoàn, dậy giáo lý. Xin xem thêm sắc lệnh về Tông Đồ Giáo Dân của Công Đồng Vaticanô II.

4/ Người giáo dân hành xử chức linh mục
khi tham dự vào việc cử hành Thánh Thể, tiếp nhận các bí tích, dâng lời cầu nguyện và tạ ơn, làm chứng tá bằng đời sống thánh thiện, hy sinh và làm việc bác ái.

5/ Ơn gọi đặc biệt của giáo dân
chính là đi mở mang Nước Chúa bằng việc dấn thân vào các lãnh vực trần thế và hướng dẫn người khác sống theo Tin Mừng. Họ được Thiên Chúa mời gọi phải đóng góp vào việc thánh hóa trần thế như một loại men, theo tinh thần của Tin Mừng.

Kết luận

Ghi lại bài thuyết trình đặc sắc này của linh mục Flores trong Đại Hội Canh Tân Đặc Sủng toàn quốc Hoa Kỳ lần thứ 28 tại Anaheim ngay trong số báo đầu tiên ra mắt này, chúng tôi muốn làm sáng tỏ ý tưởng then chốt của thuyết trình viên là tất cả mọi người chúng ta hãy bình thản, can đảm và khách quan nhìn vào lịch sử để rút ra hướng đi trong sáng và vững chãi trong tương lai. Chắc chắn thuyết trình viên muốn mỗi người chúng ta, từ giáo sĩ cho tới giáo dân phải nhớ ý tưởng then chốt: chúng ta đều là những chi thể trong Thân Thể Huyền Diệu của Chúa Kitô là Giáo Hội.

Nơi đây, mọi chi thể không thể kèn cựa nhau, kỳ thị nhau, chèn ép nhau, đè bẹp nhau, khinh thị nhau để mình nổi bật, để mình chế ngự, trái lại, mọi chi thể phải sống thuận thảo với nhau, yêu thương nhau, phục vụ nhau như huynh đệ trong tình yêu Chúa Kitô theo lời Thánh Phaolô căn dặn tha thiết các tín hữu Êphêsô: “Anh em hãy ăn ở khiên tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với hau. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được ơn để chia sẻ cùng một niềm hy vọng” (Eph 4: 2-4).

Lời Tin Mừng vừa rồi chính là khuôn vàng thước ngọc để mọi người, từ hàng giáo phẩm cho tới giáo dân, hàng ngày hãy tự hãy soi vào đó để biết mình xem có đi đúng đường hướng của Chúa Kitô và Giáo hội không? Nếu một ai, dầu mang chức sắc nào đi nữa, sống ngược lại tinh thần Tin Mừng vừa rồi, chắc chắn họ là người gây đổ vỡ, gây thương tích cho Thân Thể Chúa Kitô.

Hãy nhìn lại các bài học quá khứ, không phải như một thất đảm, một bi quan, nhưng chủ động hơn, mỗi người sống trong tinh thần sám hối và kiên quyết vươn mình đến lãnh địa của canh tân, của đổi mới theo đúng tinh thần của Giáo Hội hiện nay. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vẫn là tấm gương chói sáng trong Giáo hộïi và thế giới trong giai đoạn lịch sử này, khi Ngài mời gọi Giáo hội nhìn vào lịch sử để giải quyết những gì là tồn đọng, là vướng mắc, là mặc cảm tội lỗi trong quá khứ. Ngài đã can đảm đại diện Giáo hội xin lỗi khoảng một trăm lần tất cả những ai Giáo hội đã gây phương hại.

Khiêm nhường và thẳn thắn như thế, Ngài không bị thế giới khinh chê, trái lại, Ngài được toàn thể giới yêu thương, nể trọng và tán thưởng. Phải chăng tấm gương của Ngài không đáng chúng ta học hỏi và đi vào con đường hòa giải, tha thứ và nắm lấy tay nhau tiến vào thiên niên kỷ thứ ba. Muốn được như thế, chúng ta hãy thực hiện lời khuyên nhủ sau đây Thánh Phaolô gửi tín hữu Êâphêsô:

“Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để sống thật sự công chính và thánh thiện” (Eph 4:22-24).
Comments: Post a Comment

<< Trở Về Trang Chính - Home Page
Cám ơn quí vị, xin mời vào trang sau đây:
  • NGỌN NẾN NHỎ
  • This page is powered by Blogger. Isn't yours?