Egypt Israel Oct 2007




Bấm nút "Download Now"
để cài Windows Media Player. 
Windows Media Player 11
Download Now

Windows Media Download Center
 

Tuesday, August 23, 2005

Chuyện trò với bà Ngô Đình Nhu

Chuyện trò với bà Ngô Đình Nhu
Friday, May 27, 2005 Trương Phú Thứ


Tôi đến thăm Bà Ngô Đình Nhu vào lúc 2 giờ trưa ngày 16 tháng 3 năm 2002 tại kinh thành Paris của nước Pháp. Nắng êm dịu vừa lên sau buổi sáng ẩm ướt của những ngày đầu Xuân và Paris thì lúc nào cũng chật ních những người và xe. Thành phố có cả một kho tàng bảo vật và huyền thoại. Ở đây người đi bộ đầy đường với những tiệm ăn và quán cà phê nối tiếp chạy dài cả dẫy phố. Người Paris nhàn hạ và ham muốn hưởng thụ, chậm chạp nhưng thon thẻ hơn người Seattle. Cuộc sống thư giãn chậm chạp của những ông Tây bà Đầm là niềm ước mơ của những người luôn phải vội vã lập cập với tốc độ từ sáng sớm đến nửa đêm ở Cali hay Texas.


Bà Nhu ở một mình trong một đơn vị gia cư (apartment) của một toà nhà mới xây gần tháp Eiffel. Nói là mới để phân biệt với những chung cư san sát ở Paris đã được xây cất cả đến vài ba thế kỷ với những đường nét hoa văn cổ kính. Chung cư Bà Nhu ở có những nét kiến trúc đương đại giống như một cái hộp khổng lồ bằng kính, có lẽ đã được tạo dựng từ 30 đến 40 năm. Bà Nhu là sở hữu chủ hai (02) đơn vị gia cư ở trên tầng lầu thứ 11 của toà nhà cao tầng ở khu vực có địa thế rất đẹp và đắt tiền nhất thủ đô Paris, ngay giữa cái nôi của văn hoá và chính trị thế giới. Nơi đây một tấc đất chẳng biết giá tới mấy chục hay mấy trăm tấc vàng. Cả vùng này hầu như là nơi cư ngụ của các nhân viên và phái đoàn ngoại giao trên đất Pháp. Bà Nhu ở một đơn vị và cái thứ hai cho thuê để lấy tiền sinh sống. Đó là lợi tức duy nhất của Bà, cũng tiệm tạm đủ sống và không cần nhờ vả đến các con. Bà sống ẩn dật, đi về lẻ loi thầm lặng đến nỗi một khuôn mặt quen thuộc của cộng đồng người Việt quốc gia ở Paris là cựu Trung Tướng Trần Văn Trung vẫn nghĩ là Bà Nhu sống ở bên Ý.


Trên đường đến thăm Bà Nhu, tôi vẽ ra trong đầu óc qua hình ảnh cuả những chung cư đắt tiền ở New York hay San Francisco đã xem trên những tạp chí chuyên về địa ốc ở Mỹ và nghĩ là nơi cư ngụ của Bà Nhu chắc phải sang trọng lắm. Những apartment của Jacqueline Kennedy hay John Lennon ở New York và của các tay tài phiệt ở San Francisco gợi cho tôi một náo nức mong chờ. Các cụ mình ngày xưa vẫn nói “ăn cơm Tầu, ở nhà Tây” thì chắc là đã có một so sánh cẩn trọng. Tôi bước đi vội vàng với những lung linh nơi lãnh điạ của giới thượng lưu. Những dòng họ quý tộc từ bao nhiêu đời cấu trúc nên vẻ hào nhoáng phong nhã của kinh thành Aùnh Sáng và dân cư ngụ dù ở chân trời góc biển nào lưu lạc tới đây cũng được nhận lãnh ấn tích của người Paris.


Chiếc thang máy nhỏ hẹp vừa đủ chỗ đứng cho một ông Mỹ quá khổ đưa tôi lên tầng 11 của toà nhà cao tầng. Bà Nhu mở cửa đón khách trong chiếc áo kimono Nhật mầu xanh nước biển, khuôn mặt trang điểm kỹ lưỡng với giọng nói đặc Huế . Bà đón tôi trong một tư thái rất chánh trị, không vồn vã mà cũng chẳng quá lạnh nhạt. Bà Nhu sắp vào tuổi 80 nhưng rất khoẻ mạnh. Bà đi đứng nhanh nhẹn, lưng thẳng, đôi mắt to và sáng. Có người nói từ năm 1963 đến nay Bà chẳng già đi chút nào. Thật ra đó chỉ là một lối nói để diễn tả sức khoẻ sung mãn của một người tuy đã nhiều tuổi đời nhưng vẫn giữ dược vóc dáng linh hoạt và nét mặt không có những nếp nhăn theo thời gian. Tuy nhiên “cái già” cũng vất vưởng đâu đó trên khoé mắt vành môi. Khi Bà cười thì khuôn mặt trông rất tươi trẻ phô bầy bộ răng trắng vẫn còn đầy đủ trong tình trạng hoàn hảo.



Chỗ ở của Bà Nhu tuy không nghèo nàn nhưng chẳng có gì đáng nói, ngay cả không bằng cái apartment mà tôi thuê mướn ở ngoại ô thành phố Seattle vào mùa Đông năm 1975 khi vừa đến Mỹ. Đơn vị gia cư của Bà Nhu rất tầm thường, giống như những apartment rẻ tiền ở Mỹ với hai phòng ngủ và một diện tích nhỏ làm phòng khách. Phía tay trái lối đi từ cửa ra vào là nhà bếp. Trên tường phòng khách treo vài khung hình lớn có những tấm hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Đức Cha Ngô Đình Thục, Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, cô trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy và nhiều người thân tộc đã quá vãng. Khoảng trống phía bên tay phải là phòng khách có một bộ xa-lông, bên cạnh kê bàn ăn với 6 cái ghế. Bộ bàn ghế này và vài cái tủ nhỏ kê ngoài phòng khách làm bằng gỗ gụ mầu đen với những nét chạm trổ Việt Nam quen thuộc. Bà Nhu cho biết trước kia thân sinh là Ông Bà Trần Văn Chương có một apartment ở Paris và những đồ đạc này được mang từ Việt Nam qua, lâu lắm rồi. Khi hai cụ thân sinh bán cái apartment đi thì cho Bà Nhu bộ bàn ăn và hai cái tủ nhỏ này. Tôi đã đọc mấy bài báo nói về khiếu thẩm mỹ của Bà Nhu qua việc sắp xếp và trang hoàng Dinh Độc Lập. Giờ này được đứng ngay giữa cơ ngơi của riêng Bà mà chẳng thấy một “công trình” nào xem cho bắt mắt, có thể vì điều kiện tài chánh hay thời trưng diện của Bà đã qua.


Đứng ở nhà bếp nhìn ra ngoài có cảm tưởng như tháp Effeil sát ngay bên cạnh khung cửa kính. Tôi tiếc thầm, phải như phòng khách mà được xếp đặt ở chỗ này thì đẹp biết bao. Ngồi đây nhâm nhi ly cà phê nhìn thiên hạ từ khắp nơi trên thế giới đổ xô đến chân tháp chờ lên thang máy nhìn cả kinh thành Paris. Ngày như đêm lúc nào cũng là hội hè đình đám. “Vui với cái vui của thiên hạ” chắc lòng mình cũng phần nào đỡ trống trải. Có lẽ cũng vì vậy mà phòng ngủ bên cạnh nhà bếp có kê một bộ xa-lông để bù đắp lại sự thiếu sót to lớn của người thiết kế khu chung cư. Phòng ngủ thứ hai là chỗ làm việc của Bà Nhu với đủ loại sách báo. Cả đơn vị gia cư của một người sống lẻ loi một mình không có đến một cái giường nhỏ. Buổi tối Bà Nhu trải một cái chăn trên nền nhà, ở một chỗ nào đó trong “căn hộ” nhỏ hẹp để nghỉ qua đêm. Bà không ngủ trên giường nệm nên mặc dầu đã lớn tuổi mà vẫn giữ được lưng thẳng và đi đứng nhanh nhẹn mạnh dạn.


Bà Nhu mời tôi ngồi trên một cái ghế ngay đầu bàn ăn cạnh khu phòng khách. Bà ngồi ghế đối diện, chân trái gác lên một chiếc ghế thấp hơn. Bà nói kỳ này khí hậu thay đổi bất thường nên cái chân hơi bị đau vì vết thương ngaỳ trước. Bà Nhu bị gẫy chân trái trong vụ hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử ném bom Dinh Độc Lậïp vào ngày 27 tháng 2 năm 1962. Sau này Bà đang đi bộ thì trượt chân ngã và cũng cái chân trái này bị gẫy lần thứ hai. Mặc dầu Bà không gặp khó khăn gì khi đi đứng nhưng đôi khi cũng thấy khó chịu.


Đối với tôi đây chỉ là một cuộc thăm viếng thường tình giữa người đồng hương nơi xứ lạ. Tôi không có ý định phỏng vấn Bà Nhu và chắc chắn Bà sẽ không được tự nhiên, thoải mái khi phải đóng khung trong những câu hỏi của một cuộc phỏng vấn. Phần khác tôi cũng không muốn khơi lại những đau thương mà Bà phải gánh chịu trong cơn bão táp lịch sử và bể oan cừu cay nghiệt của cuộc đời. Tôi muốn cuộc thăm viếng không bị gò bó và trói buộc vào một chủ đề đồng thời cũng không muốn tìm tòi những gì mà cá nhân tôi và rất nhiều người được nghe đủ loại chuyện tốt xấu về Bà mà chẳng biết hư thực ra sao, và từ những mù mờ đó đã có biết bao câu hỏi về một người đàn bà một thời xe ngựa thênh thang. Tôi muốn câu chuyện được tự nhiên và để Bà chủ động bất cứ những gì Bà muốn nói. Tôi có thể dùng những tiểu xảo của kỹ thuật phỏng vấn “gài” Bà vào những sơ hở để thoả mãn những gì tôi muốn biết hoặc chỉ nghe đồn thổi. Tôi đã không làm như vậy vì lòng kính trọng đối với Bà và lương tâm ngay lành của tôi.


Tôi mở đầu câu chuyện bằng mấy lời xã giao thông thường, kính chúc Bà luôn được mạnh khoẻ an vui. Bà bắt đầu nói về lai lịch nơi hiện cư ngụ. Rất nhiều người biết qua báo chí chuyện một người Pháp giầu có biếu Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục một món tiền lớn và Đức Cha Thục đã cho Bà Nhu để mua một đơn vị gia cư trong toà nhà cao tầng này và sau đó Bà dành dụm mua thêm được một đơn vị nữa. Sự thật không phải như vậy. Bà Nhu trực tiếp nhận được một số tiền rất lớn từ một vị ân nhân ẩn danh. Có tiền trong tay, Bà đã nhờ một cựu bộ trưởng thời chính phủ De Gaulle giúp mua liền một lúc hai đơn vị gia cư này. Vào những năm mà người Việt vượt biển ra đi một cách rầm rộ gần như công khai, Bà Nhu cho mấy thanh niên mới bơ vơ đến Pháp tạm trú ở đơn vị gia cư thứ hai và không lấy tiền thuê mướn hay bất cứ chi phí điện nước nào cả. Một thời gian sau những thanh niên này tìm được thân nhân hay vì nhu cầu công việc ra đi tạo lập đời sống mới thì Bà Nhu cho một nhà ngoại giao Nhật Bản thuê mướn cho đến ngày nay. Vị ân nhân tặng Bà Nhu số tiền kếch xù đó là Bà Capaci, một cư dân thành Milan nước Ý và cũng là một trong bẩy người phụ nữ giầu nhất thế giới. Bà Nhu chưa được một lần gặp vị ân nhân này và mãi đến bốn năm sau khi Bà Capaci tạ thế Bà Nhu mới được biết tên cũng như thanh thế và sự nghiệp của người đã gia ân cho mình.


Trên bức tường ngăn phòng khách và nhà bếp có treo tấm hình đen trắng ngôi nhà của Ông Bà Nhu ở Đà Lạt, tôi kể cho Bà nghe chuyến đi về Việt Nam nhân dịp Tết Tân Tỵ, lần đầu tiên sau 26 năm vội vã ra đi lánh nạn cộng sản. Tôi đã đi Đà Lạt, ghé lại thăm ngôi nhà xưa của thời trung học, bước qua đường đứng nhìn nhà Ông Bà Nhu một lúc lâu. Ngôi nhà của Ông Bà Nhu hiện không có người ở nhưng được bảo quản khá tốt, không thấy những đổ vỡ hoang tàn vì thời gian hay qua những biến động. Hiện nay Bà Nhu không ý định về thăm Việt Nam mặc dầu Bà được nhà cầm quyền Hà Nội đánh tiếng cho biết là nếu Bà muốn về thì cũng chẳng có trở ngại gì. Những kỷ niệm về một nơi chốn thân thương xa xưa gợi lại miền ký ức dấu ái, Bà nói “tôi gặp Ông Cố Vấn năm 16 tuổi, đến năm 18 tuổi thì làm đám cưới”. Bà có vẻ buồn khi nói đến ngôi nhà ở Đà Lạt. Một vùng trời mộng mơ với những kỷ niệm của ngày tháng êm đềm nơi xứ sương mù vẫn còn vương vất đâu đây.


Khi nói về những người con thì Bà Nhu có vẻ bằng lòng với chút hãnh diện. Tôi cố tình không hỏi han gì về trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy đã bị chết thảm trong một tai nạn xe cộ trên xa lộ vòng đai của Paris. Rất có thể đây là một âm mưu quốc tế còn nhiều nghi vấn chưa được sáng tỏ và tôi cũng không muốn khơi lại những kỷ niệm đau buồn để rồi những giọt nước mắt của bà mẹ lại một lần nữa ướt đẫm trên khuôn mặt đã có quá nhiều khổ đau. Ông con trai lớn Ngô Đình Trác tốt nghiệp kỹ sư canh nông, năm nay cũng đã 55 tuổi, lấy vợ người Ý và có bốn con, ba trai một gái. Bà Nhu nói về những đứa cháu nội, con trai của Ông Trác, trong niềm vui “cao một mét tám, to lớn và đẹp trai lắm”. Vợ Ông Trác thuộc giòng dõi qúy tộc rất giầu có. Ông Trác rất đam mê công việc trồng trọt chăn nuôi và đã chế tạo được nhiều dụng cụ nông cơ thích hợp cho việc canh tác những thửa đất nhỏ. Gia đình Ông Trác sỡ hữu một biệt thự to và rất đẹp trong nội thành La Mã. Ngôi biệt thự này có cách cấu trúc và dáng dấp như một tu viện. Bà Nhu đã ở đây nhiều năm nên rất nhiều người lầm tưởng rằng Bà đã tá túc ở một tu viện Công giáo trong khoảng thời gian dài.


Người con trai thứ hai là Ngô Đình Quỳnh cũng đã trên 50 tuổi, tốt nghiệp trường E.S.E.C (Ecole Superieure de l’Economie et du Commerce) chứ không phải trường H.E.C (Hautes Etudes Commerciales) như rất nhiều báo chí và sách vở đã sai lầm. E.S.E.C là trường tư đào tạo các chuyên gia kinh tế và tài chánh cao cấp, có học trình gay gắt và học phí rất cao. Sinh viên được nhận vào học trường này phải vượt qua những cuộc thi cử cam go và sau khi tốt nghiệp được các cơ quan kinh tế và tài chánh trên toàn thế giới trọng vọng. Khi Ngô Đình Quỳnh học trường này, Bà Nhu đã không đủ khả năng trả học phí nên phải làm giấy xin nợ tiền học. Hiện Ông Quỳnh làm đại diện thương mại cho một số công ty Hoa Kỳ ở Bruxelles, thủ đô nước Bỉ. Ông Quỳnh không lập gia đình. Bà Nhu cười nói “Ông Quỳnh giống Ông Bác”, hàm ý sống độc thân như Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đang lúc tôi nói chuyện với bà Nhu thì một thiếu nữ người Pháp gõ cửa buớc vào với một xấp hình trên tay. Cô bé 17 tuổi này vừa trở về sau chuyến đi làm công việc thiện nguyện giúp các thanh nữ Phi Luật Tân bị bệnh AIDS. Tất cả chi phí cho chuyến đi của cô bé này do Ông Ngô Đình Quỳnh đài thọ. Cô bé có những lọn tóc mầu hạt dẻ khoe những tấm hình chụp chung với các nạn nhân của căn bệnh thời đại và ước mong sẽ được trở lại thủ đô của nước Phi Luật Tân để tiếp tục công việc bác ái. Bà Nhu nói ông Quỳnh sống đạm bạc và rất tích cực trong những hoạt động từ thiện nên ước vọng của cô bé chẳng phải là một giấc mơ.


Cô con gái út Ngô Đình Lệ Quyên có bằng tiến sĩ Luật từ trường đại học Roma. Lệ Quyên là một luật gia ngành Công Pháp rất nổi tiếng nhưng chỉ được mời thỉnh giảng và tham luận ở phân khoa Luật của đại học Roma mà thôi. Lý do đơn giản là Lệ Quyên không chịu vào quốc tịch Ý. Luật lệ nước Ý lại không cho phép những người không có quốc tịch được thủ đắc hàm giáo sư và do vậy không được quyền giảng dậy một cách chính thức trong học trình. Lệ Quyên thường xuyên được mời dự các hội nghị quốc tế và có nhiều bài tham luận xuất sắc làm sửng sốt các “cây đại thụ” của ngành công pháp thế giới. Lệ Quyên có chồng người Ý nhưng đứa con trai 7 tuổi lại chính thức mang họ mẹ trên giấy tờ hộ tịch. Bà Nhu hãnh diện nói tên cháu bé là Ngô Đình Sơn, một tự hào dòng họ hay là sự giữ gìn gốc rễ gia tộc.



Mỗi buổi sáng sớm, bất kể thời tiết, Bà Nhu đều “xuống đường” đi bộ chừng độ 10 phút đến nhà thờ Saint Leon dâng thánh lễ hằng ngày. Cũng tại ngôi thánh đường này, lần đầu tiên vào tuần lễ đầu tháng 11 năm 2001, Bà Nhu tổ chức lễ tưởng niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thông thường sau thánh lễ Bà ở lại giúp dọn dẹp nhà thờ và xếp đặt trưng bầy hoa nến. Ngày chúa nhật Bà phụ trách dậy lớp thánh kinh cho các trẻ nhỏ. Bà gia nhập đạo công giáo khi lập gia đình nhưng lúc thiếu thời được giáo dục trong các trường công giáo nên có thể nói là Bà đã lớn lên và trưởng thành trong tín lý của đạo Chúa. Trong câu chuyện, Bà Nhu nhiều lần biểu lộ đức tin tuyệt đối nơi sự an bài của Thiên Chúa. Bà đặt niềm cậy trông và phó mặc tất cả mọi sự vui buồn, may rủi vào sự xếp đặt và định đoạt của Đấng Tối Cao. Khi nghe tôi nói có thân nhân đang bị bệnh và rất muốn trở về Mỹ sớm hơn, Bà Nhu đi vào phòng làm việc lấy cho tôi một tượng ảnh Đức Mẹ Maria đúc bằng kẽm to hơn đồng một xu mỹ kim. Bà nói mang tượng ảnh về cho bệnh nhân thì Đức Mẹ sẽ cứu giúp và chữa khỏi. Tôi nghĩ là vì có đức tin mạnh mẽ như vậy nên Bà đã vượt qua được bao cơn sóng gió ba đào mà sống mạnh khoẻ đến ngày nay.


Trên đường từ nhà thờ về Bà Nhu cũng thỉnh thoảng ghé lại tiệm bán hoa và cây cảnh mua vài bông hoa hay một chậu cảnh trang hoàng trong nhà. Ít khi Bà phải nấu nướng vì ăn rất ít và những bà bạn người Pháp thường mang đồ ăn đến cho nên cũng chẳng bận rộn gì việc bếp núc. Trước kia tôi nghe có người nói Bà Nhu chỉ ăn qua loa, hai ba lần một tuần. Tôi nghĩ là nếu ăn uống như vậy thì làm sao mà…thở được. Bây giờ tôi nghe chính Bà Nhu nói “hai ngày nay tôi chưa ăn gì cả, vì tôi không ăn nên không có bệnh”. Các vị tu sĩ Aán Độ giáo rất ít khi ăn uống nhưng người nào cũng mạnh khoẻ và sống lâu trăm tuổi. Ở các nước Âu Mỹ đa phần người ta chết vì ăn chứ có ai chết vì đói.


Bà Nhu hầu như không đi sắm sửa quần áo giầy dép. Mỗi năm một bà bạn người Nhật gửi qua cho vài cái áo kimono đủ mặc trong nhà, có việc đi đâu thì mặc mấy cái quần áo cũ cũng còn tạm được. Nói đến quần áo Bà có vẻ đăm chiêu “ở Sài Gòn nóng quá nên tôi mặc áo dài hở cổ, Tổng Thống không bằng lòng”. Chiếc áo dài hở cổ được đặt tên là “kiểu áo Bà Nhu” đã một thời là “mốt” của các thiếu nữ Sài Gòn và cũng là một đề tài xôn xao của những người vô công rồi nghề. Bà kể chuyện trước kia phải đại diện chính phủ tiếp đón phu nhân các vị quốc khách mà chẳng có đến một món trang sức nên thấy thiếu sót. Nhân có bà vợ một ông bộ trưởng muốn bán mấy món đồ trang sức làm bằng đá đỏ (ruby), Bà Nhu có trình và xin Tổng Thống số tiền sáu ngàn đồng bạc Việt Nam để mua lại. Tổng Thống nghe lời giãi bầy cũng hợp lý nhưng yêu cầu người bán phải viết một tờ giấy biên nhận với đầy đủ lai lịch của những món đồ trang sức này. Bà Nhu nói đó là lần duy nhất Tổng Thống cho tiền và cũng chẳng còn nhớ những đồ trang sức đó bây giờ thất lạc nơi đâu.


Trong lúc nói chuyện, thỉnh thoảng Bà Nhu cũng đề cập đến những diễn biến chính trị, kinh tế và xã hội toàn cầu. Bà có những phân tích, lượng giá vấn đề một cách chi tiết và hợp lý đồng thời đưa ra những kết luận làm người nghe dễ dàng bị thuyết phục. Điều này chứng tỏ tuy sống khép mình trong một căn phòng nhỏ bé nhưng Bà vẫn theo dõi thời cuộc một cách cẩn thận. Bà vẫn còn giữ những liên lạc cần thiết với giới ngoại giao quốc tế trong một giới hạn cẩn trọng. Nhớ lại Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới năm xưa, Bà nắm hai tay ngước mắt nhìn lên trần nhà nói bằng tiếng Pháp “phụ nữ phải được giải phóng, phụ nữ phải được tôn trọng”. Giấc mơ của Bà là người phụ nữ phải có chỗ đứng và tiếng nói trong xã hội. Ước vọng của Bà là người phụ nữ phải có những cơ hội thuận tiện để thăng tiến trong mọi lãnh vực của đời sống. Tiếng nói của Bà rõ ràng, chắc nịch, lên xuống với những cảm xúc làm người nghe rất dễ bị lôi cuốn rồi nhiệt tình ủng hộ.


Trong cả một buổi chiều, lúc nói chuyện này và đột nhiên nói sang chuyện khác nhưng Bà không hề đả động gì đến nước Mỹ, mặc dầu Bà biết tôi đến từ một tiểu bang ở vùng Tây Bắc nước Mỹ. Nhiều người nói Bà Nhu căm thù Mỹ lắm vì những sai lầm trong chính sách đối với Việt Nam và nhất là đối với Đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam. Vào những ngày tháng cuối năm 1963, cả thế giới đã kinh ngạc nghe và nhìn Bà Nhu mạt sát nước Mỹ và những nhà lãnh đạo của siêu cường này ở tại một địa điểm chỉ cách Toà Bạch Oác một quãng đường. Tôi nghĩ là Bà đã không còn mang những “hận thù” đó trong tim óc nữa và thưcï sự muốn quên hết để mọi chuyện nhẹ nhàng đi vào lịch sử. Bà kể chuyện vào mùa Xuân năm 1975, sau khi cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hoà, hệ thống truyền thanh NBC của Mỹ có xin phỏng vấn trong 30 phút. Lý do Bà chấp nhận lời yêu cầu của NBC và đòi mười ngàn (10,000) mỹ kim thù lao cộng với hai vé máy bay khứ hồi hạng nhất Paris – Washington DC, vì lúc đó Lệ Quyên rất nhớ và muốn đi gặp ông bà ngoại. Bà Nhu không có tiền trang trải cho chuyến đi nhưng vì thương con nên bằng lòng trả lời cuộc phỏng vấn để có tiền đưa con gái đi gặp Ông Bà Trần Văn Chương ở thủ đô của nước Mỹ. Đối với một tổ hợp truyền thông to lớn như NBC thì những điều kiện đó thật quá nhỏ bé và họ đã vội vàng thực hiện cuộc phỏng vấn. Đó là lần duy nhất Bà đi Mỹ và cũng là lần duy nhất Bà tiếp xúc với giới truyền thông quốc tế sau năm 1963. Ngoài ra Bà chưa từng gặp gỡ hoặc tiếp xúc với báo giới Việt ngữ dưới bất cứ hình thức nào. Trong quá khứ đã có vài tờ báo ở Đức quốc và California đăng tải bài phỏng vấn Bà Ngô Đình Nhu. Tất cả những bài “phỏng vấn” đó đều là những ngụy tạo mà độc giả rất dễ dàng nhận ra tính chất giả dối và bịa đặt của người viết.


Bà Nhu cũng không nói gì về vụ phản loạn 1-11-1963 và những người được ngoại bang thuê mướn sát hại chồng Bà. Tôi có nói xa gần đến đám quân nhân phản lọan để dò xét phản ứng của Bà nhưng không trông chờ ở một sự tức giận thường tình của một con người vì thời gian đến gần 40 năm cũng đã làm nguôi ngoai cơn thịnh nộ. Bà có vẻ buồn, nhìn qua khung cửa sổ nói một cách nhỏ nhẹ bằng tiếng Anh “đó là một bọn ngu dốt”.


Đồng hồ chỉ tám giờ rưỡi tối. Những ngọn đèn của Paris kết nối làm thành một biển ánh sáng và thành phố đã bắt đầu đi vào cuộc sống ban đêm. Hơn sáu giờ đồng hồ ngồi nói chuyện, tôi đã uống hết hai ly nước bưởi to nhưng tuyệt nhiên không thấy Bà Nhu uống một chút nước nào. Tôi sợ ngồi lâu quá Bà sẽ mệt mỏi nhưng thực sự thì chính tôi là người đã thấm mệt. Bà Nhu không tỏ ra mệt mỏi hay có một dấu hiệu nào biểu hiện sự rã rời sau một buổi chiều dài chuyện trò. Trước khi tôi xin cáo từ Bà Nhu có nói đến cuốn sách của Bà. Theo chỗ tôi được biết thì cuốn sách này sẽ được phát hành cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới bằng bốn thứ ngôn ngữ: Việt Nam, Anh, Pháp và Ý. Bà viết bằng tiếng Pháp và tự dịch sang tiếng Anh và Ý. Bản dịch tiếng Việt đang trong giai đoạn nửa chừng. Cũng vì vậy mà tôi hạn chế bài viết này trong một kích thước vừa đủ, những gì độc giả muốn biết hay những gì gọi là “bí mật lịch sử” sẽ rất có thể được nói đến hoặc phân giải trong cuốn sách mà rất nhiều người đang chờ đợi. Tôi chợt nghĩ đến “ông tướng phường chèo” Nguyễn Khánh. Ông này đi đến đâu cũng cầm cuốn vở học trò huyênh hoang có nhật ký của Bà Nhu trong tay. Tôi nghĩ rất có thể Ông này lượm được cuốn vở Bà Nhu ghi chép những chuyện vụn vặt của một người nội trợ trong gia đình như hôm nay đi chợ cần phải mua những món gì, đến bao giờ thì phải đóng tiền trừơng cho con…Ngoài ra chẳng có gì đáng nói tới hay có một giá trị gì cả. Tôi cũng không hiểu được lý do tại sao khi bị đuổi ra khỏi nước mà đương sự còn ôm theo “báu vật” đó để làm gì. Đặt trường hợp “báu vật” đó mang lại danh vọng và lợi lộc hoặc là một thứ vũ khí để mạt sát nhục mạ bà Nhu thì chắc chắn độc giả đã được đọc từ lâu rồi.


Tôi bước ra chỗ thang máy để xuống phố lang thang với người Paris mà trong lòng xôn xao niềm vui vì không ngờ một “bà cụ” gần 80 tuổi đã vật vã với bao sóng gió phũ phàng của cuộc đời mà lại còn có một sức khoẻ thật sung mãn, trí óc minh mẫn đến như thế. Ở vào tuổi đời như vậy mà còn giữ được thể chất và tinh thần trong một tình trạng gần như lý tưởng thì thật là hiếm có. Bà Nhu đã thực sự lánh xa những tục lụy phù phiếm của trần gian. Bà sống trong hơi thở nhịp tim cũa đời sống tận hiến và phó dâng với niềm cậy trông tuyệt đối nơi sự quan phòng của Đấng Tạo Hoá. Tôi cầu chúc Bà luôn mạnh khoẻ, an vui.
Cám ơn quí vị, xin mời vào trang sau đây:
  • NGỌN NẾN NHỎ
  • Sunday, August 21, 2005

    XA NHÀ

    Elizabeth V. Nguyễn



    Tôi luôn có cảm tưởng rằng Thiên Chúa cho tôi mượn con cái tôi
    cho đến khi chúng khoảng 18 tuổi.
    Nếu tôi chưa chứng tỏ điều gì với chúng lúc đó
    thì coi như đã quá trễ rồi.

    Betty Ford




    Mỗi năm vào giữa tháng 8 hay đầu tháng 9, phụ huynh nhộn nhịp đưa con vào trường để đi học.

    “Em sẽ không khóc,” tôi bảo với chồng khi tôi rời khỏi buổi họp về sự hướng dẫn phụ huynh được tổ chức nhiều tháng trước khi con gái tôi sắp tham dự đại học vào mùa thu sắp tới.

    Có thể những người mẹ khác sắp khóc sau khi con cái họ ở lại nội trú, ngoại trừ tôi. Tôi nhìn chung quanh ngôi biệt thự với những người mẹ khác, tự hỏi người mẹ nào sắp khóc đây. Tôi nghĩ, tôi sẽ không cần một hộp giấy khi thời gian đến để nói từ giã đứa con gái Út của tôi. Tại sao phải khóc sướt mướt chỉ vì con xa nhà đi học và trưởng thành?

    Chúng tôi trải qua một buổi chiều lắng nghe phụ huynh của những lớp đi trước nói về cuộc sống của cha mẹ sẽ thay đổi như thế nào, khi con cái họ rời nhà vào đại học. Một người mẹ báo động rằng chúng tôi sẽ khóc sướt mướt suốt trên đường về nhà.

    Tôi thúc cùi chỏ chồng tôi, “Thật kỳ cục,” tôi nói. “Tại sao họ phóng đại một việc nhỏ nhoi như thế?” Đối với tôi được làm mẹ thật quan trọng, nhưng để khóc lóc như thế, không phải là điều đáng nói! Tôi có việc làm, có nhiều bạn, và có một đời sống!

    Thanh, đứa con gái út và tôi “tấn công” nhau suốt mùa hè. Tôi không thích cách con bé nói nó không thể đợi để rời bỏ nhà như thế nào, giống như việc nó ở chung với chúng tôi trong thời gian qua là một tù ngục, giam hãm. Con tôi ghét cách tôi cằn nhằn nó về việc quét dọn nhà cửa và lau chùi chén bát, cách tôi càu nhàu khi tôi cần dùng điện thoại và bị kẹt đường dây vì nó già chuyện, cách tôi hạch hỏi nó đi đâu sau khi đi chơi với bạn bè về. Khi con bé đúng 18 tuổi, nó không cần phải thông báo với mẹ mỗi năm phút.

    Tháng chín, tôi thường gặp bạn tôi ở thư viện, chị Trúc. Chị nhớ lại những tuần trước, con gái chị rời nhà để vào đại học mới đây.

    “Chúng tôi tranh chấp suốt mùa hè,” chị nói. “Tôi nghĩ đó là cách chúng tôi làm quen với ý kiến về cách sống xa nhau. Khi bạn luôn cãi vả và nổi giận thì khi con ra đi, bạn không còn cảm thấy quá tệ nữa.”

    Tôi suy tư trả lời, “Và con bé cũng sẽ không cảm thấy quá tệ về việc rời gia đình khi cô giận dữ với mẹ.”

    Đúng vào ngày di chuyển đến trường, vợ chồng tôi giúp đỡ con khuân vác đồ đạc lên xe, và đem xuống, mở những thùng quần áo và chứa những vật dụng đâu vào đó nơi nó ở nội trú. Tôi trải tấm khăn phủ giường cho con và chồng tôi dọn dẹp ngăn tủ để quần áo, sách vở cho con.

    Sau khi ăn trưa, chúng tôi từ giã, ôm nhau ở góc phố, và chúng tôi lái xe ra về.

    “Người đàn bà ở buổi nói chuyện cho phụ huynh đã lầm,” tôi nghĩ. “không quá tệ lắm.”

    Hai ngày sau đó, tôi bước vào phòng của con tôi. Cánh cửa mở, cái giường đã làm sẵn sàng và mọi hình ảnh thời thơ ấu của những năm thiếu nữ của con đã mất. Bất chợt, một sự lắng đọng trong tôi: con tôi đã ra đi rồi!

    Sau đó, tôi hút bụi phòng con gái tôi và nghĩ... tôi nghe ai đó gọi, “Mẹ,” rồi tôi tắt máy hút bụi để lắng nghe những tiếng bước chân tiến về phía cánh cửa, để đáp lại tiếng gọi của con. Nhưng tôi nhận ra, tôi một mình ở trong nhà. Thanh không còn ở nhà nữa và không có gì giống như xưa nữa.

    Tôi ao ước được nghe tiếng con tôi. Tôi muốn biết con tôi đang làm gì. Tôi muốn con ngồi bên cạnh giường tôi lúc về đêm giống như con thường làm và kể cho tôi nghe mọi sự, lớp học, thầy cô, bạn bè, bạn trai nó thích, những bạn trai đã thích con tôi...

    “Việc gì xảy ra vậy em?” Chồng tôi hỏi khi anh bước vào nhà. Tôi đang cắt rau cải để xào. Anh nhìn chăm chăm vào mặt tôi, “Em khóc phải không?”

    “Không anh, chắc tại củ hành,” tôi chảy mũi khi nước mắt tuôn trào.

    Sau buổi ăn tối, tôi nói với chồng, “Chúng ta gọi con đi anh. Có lẽ con đang mong chúng mình gọi.”

    “Chỉ mới hai ngày,” chồng tôi nói, “Hãy cho con một tuần dọn dẹp chuẩn bị đâu đó đã.”

    Dĩ nhiên, anh nói đúng. Tôi không muốn là một người mẹ tò mò. Tôi nhớ lại những điều xảy ra khi tôi 18 tuổi xa nhà lần đầu tiên. Tôi gặp gỡ nhiều bạn bè, học nhiều ý kiến mới, tạo nhiều liên hệ mới. Tôi phải để cho con tôi khoảng cách nó cần.

    Nhưng rồi... điện thoại reo....

    “Chào mẹ,” Thanh nói. “Mẹ có thể gởi cho con một số hình ảnh để dán lên tờ bản tin của con không? Và một vài hình ảnh của thú vật nữa?

    Thanh muốn con “Teddy Bear.” Thanh muốn một tấm ảnh của cha mẹ, một của đứa em trai. Nàng thích ở trường, nhưng nàng cũng nhớ chúng tôi nữa. Rồi Thanh bắt đầu kể chuyện ở trường cho chúng tôi nghe, ở lớp học, thầy cô và bạn bè, những bạn trai nàng ưa thích, và những bạn trai thích nàng...


    ***



    Xa nhà để nhung nhớ và trưởng thành.
    Xa nhà để thấy tình thương thiếu vắng và biết vun xới tình thương tròn đầy.
    Xa nhà để yêu thương nhau đậm đà và biết tri ân nhau thắm thiết hơn.
    Cám ơn quí vị, xin mời vào trang sau đây:
  • NGỌN NẾN NHỎ
  • BÊN NHAU

    Lệ Hằng

    Một vị linh mục, gặp một cặp vợ chồng, anh T. và chi A., lấy nhau 33 năm. Hôm nay hai người quay về nhà thờ xưa của người vợ để chuẩn bị nghi thức lễ an táng cho người mẹ của chi A. Tám năm trước, họ cũng trở về đây để lập lại lời hứa 25 năm về trước.

    Trong khi lo chuẩn bị nghi thức phụng vụ lễ an táng, tình cờ tôi khám phá ra hai người đã ly thân trong ba năm qua. Nhiều tuần lễ sau đó, mỗi người đến gặp tôi riêng rẻ. Họ đang cố gắng dành thời giờ để tìm cách làm hòa với nhau.

    Chuyện gì đã xảy ra giữa hai người? Không cãi cọ, không lợi dụng, ngay cả không ghét nhau. Sự liên hệ đã cắt đứt một cách đơn giản chỉ vì họ trở nên dính chặt theo thời khóa biểu riêng của hai người!

    Điều mà cặp vợ chồng này gặp phải kinh nghiệm đã xảy ra quá sức bình thường. Thống kê cho thấy một sự lượng giá 40% gia đình ly dị nhau. Tại sao? Thông thường, các đôi vợ chồng không dùng thời giờ hay cố gắng nuôi dưỡng tình vợ chồng của nhau. Nếu bạn muốn hôn nhân bền vững, bạn phải làm cho nó bền vững. Nếu bạn muốn hôn nhân thành công, bạn phải làm cho nó thành công. Hôn nhân không tự nhiên tự nó nở hoa mà không có thì giờ và sự cố gắng kèm theo.

    GIẢI QUYẾT SỰ KHÁC BIỆT NHANH CHÓNG VÀ TRƯỞNG THÀNH


    Thánh Phaolô tông đồ viết cho tín hữu thành Êphêsô như sau, “Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn; đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng” Eph. 4:26-27. Đối với hôn nhân, câu này có nghĩa, “Đừng để cơn giận theo mình vào giấc ngủ,” khi hai người không giải quyết điều bất đồng, nó sẽ lan rộng ra và khi sự cãi vã dính líu vào, sự lớn lên trong tin tưởng và kính trọng không thể xảy ra.

    DÀNH THỜI GIỜ BÊN NHAU

    Nhiều gia đình quá bận rộn với nghề nghiệp, công việc làm ăn hãng xưởng, con cái, tiền bạc tài chánh, và các công việc của cộng đoàn ngoài xã hội hay trong giáo hội đến nỗi không còn thì giờ dành cho nhau. Có phải đòi hỏi quá nhiều đối với đôi vợ chồng dành một đêm một tuần cho nhau, với nhau không? Con cái biết cha mẹ chúng thường đưa chúng đến những nơi tập luyện thể thao, hay ca nhạc, khiêu vũ, đánh đàn... Cho nên, một đêm một tuần, để chúng đi chung với cha mẹ các bạn chúng cho cha mẹ ra ngoài ăn tối chung vui hạnh phúc với nhau. Thật ra, con trẻ cảm thấy an toàn khi chúng biết cha mẹ chúng hạnh phúc bên nhau.

    Anh V. và anh R. là hai người bạn tốt nhất từ lúc còn học chung ở trường. Mỗi người là người đại diện trong đám cưới của người kia. Giờ đây họ dành cho nhau mỗi chiều thứ hai để sửa xe, hoặc đi xem phim, hay đi đánh banh. Đó gọi là tình bạn, cho nhau thời gian tạo nên tình bạn thắm thiết sâu xa hơn.

    Không phải người phối ngẫu là người bạn tốt nhất hơn những người bạn khác sao? Có phải nó không có ý nghĩa gì khi hoạch định một thời gian quý báu bên nhau sao? Khi vợ chồng dành thời giờ bên nhau, họ không cần phải đến với một người nào khác để cần nhu cầu căn bản được thỏa mãn.

    Nếu tài chánh không cho phép đôi vợ chồng dành một đêm một tuần ra ngoài hay ở nhà một mình thì sao? Đây là một vài sáng kiến:



    Chúng ta sẽ trông coi trẻ cho người láng giềng một đêm một tuần trong khi họ giữ con cho chúng ta một đêm khác.


    Có thể gợi ý kiến cho các cặp vợ chồng khác hay bạn bè đem quà Giáng Sinh hay sinh nhật ở lúc giữ em như là một món quà.


    Khi có một cơ hội nào quan trọng đủ, chúng ta có thể dùng một cách nào đó để hoàn thành v.v...



    CẦU NGUYỆN VỚI NHAU

    Đối với những cặp vợ chồng đi lễ thường xuyên, theo thống kê hồi thập niên 80 thì thay vì 1 trong 2 cặp chấm dứt ly dị thì tỷ lệ ly dị của những cặp vợ chồng này là 1/50.

    Đối với các cặp vợ chồng đi nhà thờ hàng tuần và đọc Kinh Thánh thường xuyên, tỷ lệ ly dị là 1/105.

    Chuyện có lý. Hôn nhân công giáo đặt trên căn bản Chúa Kitô. Đó là một bí tích vì Chúa Yêsu hiện diện trong sự kết hợp này. Nếu một đôi vợ chồng cho rằng sự kết hợp của họ là một hôn nhân công giáo, nhưng họ không dành thời giờ ở với, lắng nghe, và học hỏi về Chúa Yêsu, làm thế nào hôn nhân công giáo này bền vững lâu dài?

    Cũng vậy, một đôi vợ chồng dành 30 giây một ngày cầu nguyện chung với nhau có quá nhiều không? Đó là một hình ảnh đẹp đẽ nhìn thấy đôi vợ chồng dành một ít thời gian trong giờ con cái đi ngủ ban đêm để cảm tạ Thiên Chúa cho con cái và ban cho ân sủng của tình làm cha làm mẹ. Vợ chồng chia sẻ những bí mật sâu xa và những giấc mơ táo bạo nhất. Có thể nào một trò chơi được chia sẻ trong đời sống cầu nguyện không?


    CANH TÂN LỜI HỨA THƯỜNG XUYÊN

    Anh A và chị T nói với tôi rằng mỗi sáu tháng anh chị lập lại lời hứa ban đầu:

    “Anh, tiếp tục nhận em, là vợ.”

    “Em, tiếp tục nhận anh, là chồng.”

    Họ cởi nhẫn và lại trao cho nhau, “Anh/Em tiếp tục mang nhẫn này là dấu chỉ tình yêu, lòng chung thủy của anh/em. Nhân danh Cha, Con và Thánh Thần.”

    Tôi tham dự những ngày hôn nhân kỷ niệm 5, 10, 15, 20, 25 năm nghe họ lập lại lời hứa thuở ban đầu. Tuy nhiên, anh chi A và T làm cho tôi mở mắt ra nhìn thấy một điều mới. Cặp này lấy nhau 4 năm, vẫn chú tâm về hôn nhân của họ bằng cách lập lại lời hứa thường hơn với nhau.

    *
    Những lời khuyên này đối với những trò chơi hôn nhân có vẻ đơn giản kinh khủng, nhưng đôi khi, “sự đơn giản kinh khủng” làm nên những việc kỳ diệu. Nếu mọi người trong giáo xứ này làm vài việc đơn sơ mà họ biết họ phải làm thì hầu hết những vấn đề to lớn khác của chúng ta sẽ tự nhiên giải quyết một cách êm đẹp.

    Đức Yêsu nói, “một cái nhà xây trên cát sẽ sụp đổ khi một cơn gió mạnh thổi qua. Một cái nhà xây trên đá sẽ tồn tại sau một cơn bão táp.” Nếu vợ chồng giải đáp cùng một sự khác biệt một cách trưởng thành và êm đềm, dành thời giờ cho nhau, cầu nguyện hằng ngày với nhau, lập lại lời hứa thường hơn, chắc chắn họ có thể xây dựng một nền tảng gia đình đứng vững dù cho bão táp giông tố hãi hùng đến đâu.
    Cám ơn quí vị, xin mời vào trang sau đây:
  • NGỌN NẾN NHỎ
  • Phản ứng Pavlov trong xã hội về danh xưng giữa quan và dân

    Lê Văn Khoa

    Chuyện xảy ra tại một đất nước nọ có truyền thống rất lâu đời là mọi người dân trong nước, dù già dù trẻ, đều phải gọi các quan, dù lớn dù nhỏ, dù già dù trẻ, là cha là mẹ và xưng là con. Truyền thống này đã bắt đầu từ thời cha ông tổ tiên cách đây cả mấy ngàn năm.

    Thời ấy Mạnh Tử, một người được dân chúng coi là thánh nhân, đã dạy các vua quan phải yêu thương và lo cho dân chúng như cha mẹ yêu thương và lo cho con cái mình. Và ông đã dùng thành ngữ “dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân, people’s parents) áp dụng cho vua quan để nhắc nhở họ bổn phận phải yêu thương và chăm sóc dân như cha mẹ đối với con cái. Và chính khi họ yêu thương dân như cha mẹ thì họ xứng đáng được dân coi như cha mẹ của họ.

    Nhưng sau đó, các quan trong nước cứ dựa vào câu của thánh nhân nói để bắt con dân của mình gọi mình là cha mẹ cho dẫu rất nhiều vị chẳng hề quan tâm tới chuyện yêu thương dân và lo cho dân gì cả. Nhiều vị quan còn hống hách với dân, hà hiếp dân, chẳng có một chút tình thương nào đối với dân, coi dân chúng như một đàn bò để mình có sữa uống hằng ngày, nhưng vẫn cứ đòi hỏi dân phải gọi mình bằng cha bằng mẹ. Nếu họ không chịu gọi như thế thì tỏ ra bực bội họ, tẩy chay họ, chụp mũ họ là theo giặc, là gian tế, là dám coi thường lời thánh nhân. Họ không hề tự hỏi ai mới là người coi thường lời thánh nhân?

    Dân chúng vốn hiền lành và đã chấp nhận thói quen bị hà hiếp suốt mấy chục thế kỷ nên cũng muốn mọi chuyện được xuôi sẻ, không muốn gặp chuyện phiền phức khó dễ trong đời sống xã hội, đành bấm bụng gọi họ bằng cha bằng mẹ và xưng con ngọt sớt với họ cho xong chuyện. Tuy nhiên cũng có nhiều người tự nguyện xưng hô như vậy để lấy lòng quan hầu được hưởng những ân huệ mà quan nhỏ giọt cho. Thật tội nghiệp!

    Hiện tượng này trong xã hội giống như một phản xạ có điều kiện theo lý thuyết của Pavlov. Một con chó mỗi lần người ta cho ăn thì họ lại đánh một tiếng kẻng. Sau nhiều lần, chỉ cần nghe tiếng kẻng mà không cần nhìn thấy đồ ăn là con chó cũng chạy tới chỗ thường ăn và dịch vị trong dạ dày nó tiết ra y như khi thực sự trông thấy đồ ăn vậy.

    Trong bối cảnh bài này, đồ ăn tượng trưng tình thương và sự quan tâm lo lắng của các quan đối với dân; tiếng kẻng tượng trưng chức vụ làm quan; dịch vị trong dạ dày tiết ra tượng trưng việc gọi quan bằng cha mẹ.

    Khởi đầu các quan yêu thương và lo cho dân nên dân coi quan như cha mẹ mình. Nhưng một thời gian sau, chỉ cần là thấy ai là quan, dù vị quan ấy chẳng hề yêu thương hay lo cho dân chút nào, thậm chí còn làm hại dân nữa, thì phản ứng của dân là vẫn cứ gọi vị quan ấy là cha mẹ như thường. Còn vị quan tuy dù chẳng hề yêu thương và lo cho dân, nhưng nếu thấy ai không gọi mình là cha mẹ thì cảm thấy khó chịu, bực bội, không quen… và đôi khi nổi quạu. Về sau, người ta không còn quan tâm tới chuyện quan có yêu thương dân hay không, mà chỉ cần làm quan là được dân chúng gọi bằng cha mẹ rồi! Phần nào vì làm quan thì có quyền, nhất là trong xã hội theo cơ chế xin-cho, nên người dân sẵn sàng chấp nhận lệ đó như một luật của xã hội. Ai không theo luật đó là bị tẩy chay ngay, không chỉ bởi các quan mà còn bởi người dân nữa (vì họ dám hành xử khác với mình!)

    Sự đời là thế đấy!
    Cám ơn quí vị, xin mời vào trang sau đây:
  • NGỌN NẾN NHỎ
  • SỨ MỆNH GIEO NHÂN !

    Nguyễn Đông-Khê


    1.- Tôi vừa làm công quả ở một ngôi chùa Việt Nam tại thành phố tôi cư ngụ. Công việc đơn giản chỉ là phụ làm bếp trong việc sắt cà rốt, củ cải, rửa đồ dùng trong bếp, cắt dây buộc cho người khác bó giò chay … Đến giờ cơm trưa, tôi được chùa đãi phở chay lần đầu, với bát phở thơm ngon, có rau húng quế, ngò gai, giá, tương đen và tương ớt đầy đủ cả, ngọai trừ thịt heo và thịt bò được biến chế từ củ cải. Điều đáng nói ở đây không phải là những gì tôi vừa kể trên, mà là những câu chuyện mạn đàm và về một vài đọan văn trong một cuốn sách tôi mua được ở chùa có liên quan đến người công giáo.



    2.- Mấy hôm trước tôi khoe với một người bạn tôi sẽ đến chùa làm bếp vào Chủ Nhật, người ấy liền nêu thắc mắc: “Ủa, người công giáo sao lại đến chùa làm việc thiện nguyện ?” Tôi chỉ cười và thầm nghĩ thắc mắc ấy có lẽ cũng là não trạng chung của hầu hết người công giáo. Tôi không trách bạn tôi hay bất kì ai, đã gieo vào đầu óc tín đồ theo đạo Chúa ý tưởng phân biệt nọ! Tôi nghĩ việc tôi đến chùa làm việc là cơ hội giúp tôi tẩy xóa thành kiến tiêu cực hẹp hòi ấy, và việc làm nhỏ bé này phù hợp với khả năng tầm thường và phương tiện của riêng mình. Từ lâu tôi vẫn nghĩ Thiên Chúa Chí Thiện Chí Nhân không thể nào chỉ giới hạn tình thương vô thủy vô chung của Ngài cho một thiểu số người theo một thứ đạo riêng biệt. Thiên Chúa yêu thương “con người” cách nhưng không, và chỉ có như thế mới thể hiện trọn vẹn “Thiên Chúa là Yêu Thương” (1Ga 4:8). Ngài muốn con người cũng phải yêu thương “con người” như cách thế Ngài yêu thương họ vì đạo Chúa là đạo “mến Chúa yêu người”. Nói khác đi theo đạo Chúa là “sống đạo làm người” , là “đạo tâm” , là đạo thực hành theo lương tâm con người, là cốt lõi và cũng là đích điểm cho tất cả mọi thứ đạo qui về một Ông Trời là vị Cha Chung của muôn lòai thụ tạo. Tôi ghi nhận được nhiều điều trong một ngày làm công quả.



    3.- Hai phụ nữ trung niên trao đổi kinh nghiệm về việc nấu các món ăn. Chị S. nói có lần chị đem đồ chay do chính chị nấu đến sở làm. Đến giờ ăn trưa, chị đem món ăn ra chia sẻ với chị bạn Việt Nam theo thông lệ hai người vẫn quen làm hàng ngày. Chị S. thuật lại: “Chị biết không, người công giáo thiệt kì cục, khi biết tôi mang theo đồ chay, chị bạn tôi từ chối không muốn ăn, nói đồ chay là đồ cúng người có đạo không được phép ăn.”



    4.- Chị L. đem con đến chùa học Việt ngữ, tiện thể chị ghé vào bếp phụ sắt cà rốt và củ cải trắng. Chị trao đổi:

    - “Khi nào tôi vui thì đi shopping, khi tôi buồn thì đến chùa !”

    - “Ủa, sao vậy? Bữa nay chị đến chùa là vui hay buồn?”

    - “Không vui mà cũng không buồn. Vì phải đem con đến đây học Việt ngữ. Đưa được thằng nhỏ đi học Việt ngữ là cả một vấn đề! Tôi đưa nó đến một nhà thờ công giáo, người ta đòi đóng 250 đồng tiền học, cộng với 100 đồng tiền “ngọai đạo” là 350 đồng cho một năm. Tôi hỏi tại sao tôi phải đóng thêm tiền “ngọai đạo” thì họ nói luật lệ như vậy đó. Tức quá tôi hỏi: vậy khi nhà thờ bán vé số và mở hội chợ gây quĩ có cấm người ngọai đạo tham gia không? Họ nín thinh không trả lời! Tôi nói tôi muốn gặp ông cha, nhưng họ không cho gặp. Thế rồi, tôi xách thằng nhỏ sang một nhà thờ công giáo khác, gặp một bà phước có chân trong chương trình dạy Việt ngữ. Họ cũng đòi hỏi tôi phải đóng thêm tiền ngọai đạo ngòai giá qui định bình thường. Tôi hỏi tại sao tôi phải đóng thêm tiền ngọai đạo ? Bà phước giải thích tiền đó “không gọi là tiền ngọai đạo”, mà là theo “luật lệ”, người nào không thuộc về giáo xứ thì phải đóng thêm khỏan tiền đó. Tôi nói tôi muốn gặp ông cha. Bà phước nói cha bận, nếu chị muốn gặp cha thì xin gọi điện thọai hẹn giờ đến gặp. Tức quá, tôi xách con tôi về, hỏi thăm người này người nọ thì biết được cũng có lớp Việt ngữ tổ chức ở chùa. Chạy đến chùa, thì nhà chùa nhận thằng nhỏ vô học liền. Tháng đóng 10 đồng khỏe re: 5 đồng cho bài vở, 5 đồng tiền điện nước ...”



    5.- Anh chị K. là hai người trong số những người học lớp dưỡng sinh “Việt pháp công” tổ chức ngay tại chùa. Anh nói anh chị ấy đến trễ là vì vào sáng sớm hai anh chị dắt nhau đi nghe mục sư Tin Lành John Osteen của nhà thờ Lakewood Church giảng tại Convention Center. Anh K. nói:

    - “Tôi và bà xã tôi theo đạo Phật, nhưng chúng tôi không mang đầu óc hẹp hòi. Chúng tôi học hỏi được rất nhiều điều hay từ các tôn giáo khác. Chúng tôi thường xuyên theo dõi các bài giảng của các mục sư. Ông John Osteen là nhà giảng thuyết Tin Lành mà chúng tôi ưa thích. Ông đã biết đánh động thính giả bằng cách khơi dậy nơi họ khả năng đổi mới, thực hành thiện ích ngay tại gia đình mình, ở nơi đây và ngay lúc này. Chẳng hạn như ông ta đề cập đến chuyện hút thuốc lá. Nhiều người họ biết đấy là thói xấu có hại cho sức khỏe, nhưng họ quen hút thuốc lá là vì thân phụ họ hút, ông nội họ hút, cụ nội họ hút … Ông mục sư nói: nếu người hút thuốc lá không tự mình dứt bỏ việc hút thuốc lá, thì họ tiếp tục là kẻ “gieo nhân xấu” để con cháu và dòng giống của họ sau này cứ phải lãnh “hậu quả xấu” từ việc hút thuốc lá.”



    6.- Vào cuối ngày, một Phật tử mời tôi thỉnh sách “Tâm Lý Đạo Đức” của Tỳ Kheo T.C.Q. xuất bản từ Việt Nam về đọc. Mang sách về nhà, tôi cắm đầu cắm cổ đọc một hơi, và dưới đây là vài trích đọan liên quan đến người công giáo trong sách này. Thày T.C.Q. nói:

    - “Chúng ta hãy nhìn các tôn giáo bạn, trẻ vừa sinh ra là đã được nhà thờ làm lễ rửa tội để làm tín đồ dù đứa bé chưa biết gì. Lớn lên lập gia đình phải vào nhà thờ làm lễ, nghĩa là bảo đảm người hôn phối cũng phải theo đạo. Nếu lấy người ngòai đem về càng có công với Chúa. Vì thương chiều con cái họ cũng xuôi theo sự lựa chọn tình yêu của tuổi trẻ mà không hề có một điều kiện công bằng hơn cho truyền thống đạo giáo của gia đình…” (trang 18-19)

    Tác giả đưa ra nhận xét về lối sống của hàng giáo sĩ công giáo:

    - “… Ông Voltaire, người Pháp, đã từng phê bình những tu sĩ Thiên Chúa Giáo… Ông nói: “Vì tôn giáo mà cung điện đã được dựng lên cho giáo sĩ.” Ông không nói là nhà thờ mà gọi nơi thờ tự đó là cung điện. Chúng ta thường thấy, nhà thờ bên đạo Thiên Chúa rất lớn, rất cao, khuôn viên rộng mênh mông. Những giáo sĩ đạo Thiên Chúa sống trong những nhà thờ lớn như vậy nên ông cho rằng nhờ có danh nghĩa Thiên Chúa giáo mà những tu sĩ được ở trong cung điện, sa hoa hơn, sang trọng hơn, sung sướng hơn những người thường. Trong khi đó, đúng ra người tu hành phải sống bằng hoặc khổ hơn những người thường.” (Trang 327-328)

    Tác giả dùng câu chuyện này để khuyên các tu sĩ Phật giáo không nên tích lũy tài sản:

    - “Thiên Chúa Giáo có một vị Thánh tên là Don Bosco. Ông theo một dòng tu chuyên về giáo dục. Lúc ông đi tu, mẹ ông nói: Một ngày nào mà mẹ biết trong túi con có đến 10 franc thì mẹ không nhìn mặt con nữa.

    Ông là người rất thương mẹ. Vì vậy, trong suốt thời gian tu hành, ông không bao giờ dám giữ tiền vì sợ mẹ biết, mẹ sẽ từ bỏ. Khi có tiền, ông liền mang cho người khác. Vậy mà tiền tiền cứ mỗi lúc một phát sinh. Ông càng lớn lên, đạo đức càng tăng trưởng. Vì một khi đã có hạnh bố thí thì các công hạnh khác cứ thế mở ra. Ông vốn chuyên về giáo dục nên thường đưa những đứa trẻ lang thang, hư hỏng về nuôi nấng, dạy dỗ. Công lao của ông rất lớn. Một lần ông có ý định xây một ngôi trường lớn để những đứa trẻ ấy có chỗ học hành đàng hòang. Tất nhiên đó mới chỉ là ý định thôi vì ông không có sẵn tiền. Điều kì lạ là ý định chỉ mới nảy sinh, ông đã được một người đưa đến một xe tiền. Đó chính là cái phước có được do sự tích cực bố thí của ông. Cứ thế, suốt cả cuộc đời lo cho chúng sinh và giáo dục cho mọi người những điều tốt đẹp, ông đã được phát thần thông. Ông có trực giác có thể đóan trước được nhiều việc. Sau này, con chiên đến xưng tội chỉ quỳ trước ông, chưa cần nói điều gì, ông đã biết tất cả. Khi ông qua đời, tòa thánh Vatican đã phong Thánh cho ông, mở thành dòng Don Bosco đến bây giờ. Như vậy, nhờ phước bố thí mà ông đã được thù thắng.” (Trang 176)

    Tác giả còn đưa ra lời khuyên thật thú vị trong việc cầu nguyện:

    - “Có hai cực đoan mà người tu chân chính phải tránh. Một là, cho tự sức mình là đủ, rồi đi đến chỗ chủ quan kiêu mạn; hai là lúc nào cũng cầu xin lệ thuộc vào thần thánh mà không biết nỗ lực tinh cần, rồi đi vào mê tín bạc nhược.”

    Rồi tác giả đi đến giải pháp dung hòa: “trung đạo đúng nghĩa là vừa nỗ lực bản thân nhưng vẫn khiêm hạ nương nhờ công đức của Phật. Và trung đạo luôn luôn đem lại kết quả tốt đẹp… Người ngọai đạo cầu xin Thần Thánh để được hưởng quả , ví dụ như cầu được giàu sang, đỗ đạt, may mắn. Còn người đệ tử Phật cầu nguyện cho Phật gia hộ cho mình gieo nhân , ví dụ như cầu cho có cơ hội để giúp người, để đắp đường, để khuyên bảo người khó bảo. Đây là chỗ khác nhau giữa người tin Thần Thánh mà không tin nhân quả, với người tin Phật và tin nhân quả.” (Trang 64)



    7.- Vào thời buổi văn minh tiến bộ này, vẫn còn có người công giáo mang thành kiến sai lầm về người khác đạo, và mang não trạng tự tôn mặc cảm! Lỗi ấy bởi ai? Do tổ chức và giáo dục sai lầm? Do thờ ơ thiếu hiểu biết về đạo? Do dửng dưng không biết đến những canh tân đổi mới sau Công đồng Vatican II ?



    8.- Luật lệ được thiết lập để phục vụ con người một cách công bình và ngăn ngừa mọi trường hợp lạm dụng. Tổ chức lớp Việt ngữ là một sinh họat phục vụ nhân sinh, duy trì văn hóa Việt. Thứ tự ưu tiên dành cho con em của giáo dân trong danh sách những người đóng góp thường xuyên cho giáo xứ là điều hợp tình hợp lí theo lẽ công bình. Tuy nhiên, khi danh sách dành cho thứ tự ưu tiên đã hết, mà vẫn còn chỗ để nhận thêm con em của người không thuộc về giáo xứ, thì việc đòi hỏi đóng thêm tiền học là áp dụng luật lệ một cách máy móc, có lợi cho giáo xứ về tiền bạc, nhưng hết sức bất lợi cho việc truyền bá Tin Mừng!



    9.- Ngôn sứ Mi-kha dạy: “Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt, điều nào Đức Chúa đòi hỏi bạn: đó chính là thực thi công bình, quí yêu nhân nghĩa và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn.” (Mk 6:8).

    Lời Chúa trong Thánh Kinh là lương thực và là kim chỉ nam cho tòan nhân lọai, không chỉ giới hạn cho một dân riêng hay cho một tôn giáo nào! Tập thể hay cá nhân lòai người, khi tuân hành theo tiếng lương tâm, theo hòan cảnh và điều kiện riêng, nếu đã chọn cho mình một vị thế, một con đường, một tôn giáo … và họ nghĩ rằng tôn giáo ấy đúng nhất, hay nhất, hòan hào nhất. Thiết tưởng khi khiêm tốn sống hết mình theo lời giảng dạy tốt lành của tôn giáo họ theo, mọi người sẽ qui về một mối vì chỉ có một Ông Trời, tòan thể nhân lọai sẽ biết sống hòa thuận yêu thương nhau, đang khi vẫn giữ được bản sắc dân tộc và tôn giáo của riêng mình như lời thày Mạnh Tử: “Quân tử hòa nhi bất đồng.”



    10.- “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, yếu tố lôi cuốn thiên hạ có cảm tình với đạo, mến đạo và theo đạo không tựa trên các thành tích bên ngòai như cơ sở, đền đài, lăng tẩm, không tựa trên tổ chức và hệ thống triết lí giáo lí chặt chẽ, mà chính là tựa trên “Con Người”. Một giáo hội đầy quyền lực và giàu mạnh bề ngòai, thường có bộ mặt khó thương vì ngôn hành không hiệp nhất, khiến thế nhân không khẩu phục tâm phục, và sinh lòng ganh ghét tị hiềm. Một giáo hội biết tuân thủ sống theo lời giảng dạy của Đấng sáng lập, có các vị lãnh đạo và tín đồ giàu lòng vị tha bác ái, thì thiên hạ dễ có cảm tình và thích lại gần giáo hội đó. Vùng đất chung của mọi tôn giáo phải là “Yêu Thương”, và yếu tố đánh động và lôi cuốn thiên hạ có cảm tình với đạo, tìm đến với đạo, là chính lời nói và gương bày từ người có đạo.



    11.- Thánh Thomas Aquinô đã dạy: “Mọi điều chân thật do bất cứ ai nói ra, đều phát xuất từ Chúa Thánh Thần.” (Tổng Luận Thần Học I-II, q. 109).



    12.- “Lạy Trời, xin dạy cho con biết lắng nghe, để con tìm gặp Ngài trong sứ mệnh gieo nhân giữa lòng nhân lọai. A-men”

    Nguyễn Đông-Khê
    Cám ơn quí vị, xin mời vào trang sau đây:
  • NGỌN NẾN NHỎ
  • Đức Giêsu là gì đối với ta?

    Nguyễn Chính Kết


    1. Những gì mình nghe nói và những gì chính mình nhận định

    Một bà mẹ nghe chị hàng xóm nói về con mình, chị khen nó đủ mọi mặt như một đứa trẻ thật gương mẫu. Bà mẹ nhận ra trong những lời khen ấy có những lời đúng, có những lời quá đáng, và có những lời hoàn toàn sai sự thật. Bà có nhận định riêng của mình về con bà. Cùng nhìn về một đứa trẻ, nhưng hai người có hai nhận định khác nhau. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi các môn đệ mình hai câu hỏi khác nhau về Ngài: «Người ta nói Con Người là ai?», và «Anh em bảo Thầy là ai?» Hai câu hỏi ấy là hai câu hỏi mà Ngài muốn mỗi người chúng ta trả lời.

    Câu hỏi thứ nhất có thể diễn dịch lại cách mới mẻ cho phù hợp với các Kitô hữu thời nay như sau: «Anh chị đã học hỏi những gì về Thầy? Các linh mục hay các giáo lý viên đã dạy anh chị về Thầy thế nào?» Với những người đã học thần học ở trường lớp, câu hỏi có thể là: «Các tín điều trong Giáo Hội hay môn Kitô học đã xác định về Thầy thế nào?» Để trả lời câu hỏi này, ta có thể trả lời theo kiểu trả bài những gì ta đã học được về Ngài, một cách thật khách quan, không có ý kiến hay cảm nghĩ gì của ta cả. Câu trả lời này hoàn toàn lý thuyết, nó không trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của ta hoặc làm ta thay đổi bao nhiêu.

    Câu hỏi thứ hai có thể diễn dịch lại cách mới mẻ cho ta như sau: «Anh chị nghĩ gì và quan niệm thế nào về Thầy? Thầy là gì của anh chị? Thầy có đóng một vai trò gì trong cuộc đời anh chị không? Vai trò đó thế nào? Đối với anh chị, Thầy là một nhân vật lịch sử trong quá khứ hay là một nhân vật đang sống trong hiện tại? Đối với anh chị, Thầy đang chủ yếu sống ở trên trời, trong nhà thờ, hay trong chính bản thân anh chị? Muốn gặp Thầy thì anh chị gặp ở đâu?» Để trả lời câu hỏi này, ta phải xét lại quan niệm thật sự của chính ta về Ngài, thái độ, cách sống và cách xử sự thực tế của ta đối với Ngài, chứ không thể trả lời cách lý thuyết được. Câu trả lời này ảnh hưởng mạnh mẽ và là phản ảnh chính xác đời sống tâm linh của ta.

    2. Đức Giêsu là gì của ta?

    Nếu Ngài chỉ là một nhân vật lịch sử, đã đến trong quá khứ của lịch sử nhân loại, cách đây 2000 năm, thì cho dù Ngài là ai, là Con Thiên Chúa, là ân nhân vĩ đại nhất của nhân loại, v.v… Ngài cũng chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta bao nhiêu. Cho dù ta có hiểu rõ từng chi tiết cuộc đời Ngài, từng quan niệm, từng tư tưởng của Ngài, thì Ngài vẫn là một người xa lạ đối với ta, sống khác thời với ta. Nếu Ngài chỉ là một người hiện vẫn đang sống, nhưng chỉ sống ở trên trời cùng với Thiên Chúa Cha, với các thiên thần và các thánh, thì quả thật ta không dễ gì mà gặp Ngài. Nếu Ngài chỉ hiện diện trong nhà tạm, trên bàn thờ, trong hình bánh rượu của phép Thánh Thể, thì ta có thể gặp Ngài mỗi khi ta đến nhà thờ để cầu nguyện, để dâng thánh lễ; và Ngài có thể ngự vào lòng ta trong chốc lát khi ta rước lễ; ngoài ra, Ngài vẫn là người ở bên ngoài ta.

    Hay Ngài là một người rất thân thiết với ta, hơn cả những người thân yêu nhất của ta, hiện diện ngay trong bản thân ta, và là phần quan trọng nhất của bản thân ta? Ta có thể nói như thánh Âu Tinh: Ngài còn «thân thiết với tôi hơn cả chính tôi thân thiết với tôi nữa»? hay như thánh Phaolô: «Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi» (Gl 2,20)?

    Đức Giêsu là gì đối với ta, điều đó tùy thuộc một phần vào những gì ta nghe nói hay học hỏi về Ngài, và phần khác vào sự dấn thân của ta cho Ngài sau khi đã được nghe nói về Ngài. Chỉ sau khi dấn thân theo những lời mời gọi mà ta nghe được từ sâu thẳm lòng mình của Ngài, ta mới cảm nghiệm được Ngài thật sự sống động và ở ngay trong bản thân ta, làm nên phần bản thể cao quý nhất và thâm sâu nhất của ta. Ngài đã ở trong ta, và làm nên phần thiêng liêng cao quý nhất của ta trước khi ta nghe nói hay biết đến Ngài. Câu trả lời thứ hai này ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tâm linh ta.

    3. Đời sống tâm linh của ta tùy thuộc ta trả lời thế nào cho câu hỏi: «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?»

    Ta quyết định cho Ngài là gì đối với ta, điều đó tùy thuộc vào tự do của ta, thứ tự do mà Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng. Nhưng câu trả lời cho câu hỏi «Ngài là gì đối với ta?» quyết định tính chất đời sống tâm linh của ta. Nếu ta cho rằng Ngài là đối tượng cao quí nhất trên đời, hơn tất cả bất kỳ những gì còn lại – hơn cả cha mẹ, người yêu, tiền bạc, của cải, sự nghiệp, quyền lực – và ta sẵn sàng hy sinh tất cả để có được Ngài, để đạt được ngài, thì thái độ tự nhiên và tất yếu của ta sẽ là sẵn sàng hy sinh tất cả để có Ngài. Tương tự như người đi tìm ngọc quý, khi tìm được, anh về bán hết tất cả mọi thứ mình có để mua cho bằng được viên ngọc ấy (x. Mt 13,45-46), vì anh cho rằng viên ngọc ấy quý giá gấp bội gia tài anh đang có.

    Vấn đề quan trọng là phải xác định tại sao Đức Giêsu lại quý giá đối với ta đến nỗi ta nên sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được Ngài? Đạt được Ngài thì ta được gì? – Ngài chính là phần cao quý nhất, thiêng liêng và thâm sâu nhất của chính bản thân ta. Ngài chính là món quà quí báu nhất mà Thiên Chúa ban cho ta, là phần quan trọng làm nên yếu tính của ta, nhờ đó ta được «được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2Pr 1,4). Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa ở trong bản thân ta, là sức mạnh, là tình yêu, là sự sống của ta. Vì thế, khi ta «có» Ngài nhờ thái độ sẵn sàng hy sinh tất cả để được Ngài, thì ta trở nên «đồng hình đồng dạng» với Ngài (Rm 8,29; Pl 3,10), nghĩa là tràn đầy yêu thương, sức sống và sức mạnh. Nhờ đó ta được giải phóng khỏi cảnh nô lệ cho chính bản thân ta, cho tính ích kỷ, cũng là nô lệ cho tội lỗi, để sống vị tha (vì Thiên Chúa và vì tha nhân), để luôn yêu thương và luôn quan tâm đến hạnh phúc của mọi người.

    Món quà quý báu mà Thiên Chúa ban cho ta – là Đức Giêsu hay sự hiện diện của Thiên Chúa ở trong ta – vốn đã sẵn có trong bản chất của ta, nhưng ta không hề biết, hay chỉ biết một cách lý thuyết. Vì thế, ta không có sức mạnh và tình yêu đúng như ta phải có. Đức Giêsu ở trong ta dường như ở trong tình trạng ngủ say tương tự như khi Ngài ngủ trong thuyền của các môn đệ giữa cơn bão biển gầm thét, đe dọa (x. Mc 4,35-41). Có Ngài ở trong ta, nhưng Ngài chẳng tác động gì cả, chẳng khác gì Ngài vắng mặt. Tại sao? Vì đối với câu hỏi «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?» ta chỉ biết trả lời cách máy móc những gì ta học được về Đức Giêsu từ Giáo Hội. Trong khi đó, cách sống thực tế của ta thì trả lời ngược lại: Ngài dường như chẳng là cái thá gì đối với ta cả, ta vẫn coi rất nhiều thứ khác trọng hơn Ngài và trọng hơn nhiều. Ta vẫn coi «cái tôi» của ta quan trọng hơn Ngài nhiều, coi ý muốn của ta quan trọng hơn ý muốn Ngài rất nhiều. Như vậy Ngài chẳng là gì đối với ta cả! Vì thế, Ngài ở trong ta mà vẫn như người ngủ quá say, ta vẫn yếu đuối, vẫn thấp hèn, chẳng hơn gì những kẻ không tin.

    span style="color:blue">Ngài chỉ trở nên sống động và đem lại sức mạnh, tình yêu, bình an, hạnh phúc cho ta khi nào ta thật sự coi Ngài là Chúa Tể của lòng ta, là lẽ sống của ta, là cái quí giá nhất ở trong ta. Ngài chỉ có thể tác động mạnh mẽ trong ta khi ta coi Ngài hơn tất cả mọi thứ trên đời, hơn chính bản thân ta, coi ý Ngài hơn ý ta, và toàn con người của ta bị Ngài thu hút thật sự. Chỉ khi ấy, ta mới nhận ra sức mạnh của Ngài ở trong ta thật mãnh liệt. Ta hãy thử sống như Ngài là tất cả của ta, là lẽ sống của ta xem, ta sẽ có kinh nghiệm về sức mạnh của Ngài ở trong ta. Và ta sẽ trở thành những viên đá thật sự cho tòa nhà Giáo Hội. Nếu không, dù ta có là người lãnh đạo cao nhất trong Giáo Hội, ta cũng chẳng phải là đá làm nền cho Giáo Hội đâu! Khi ấy, Giáo Hội mà được xây trên ta thì chỉ như xây trên cát thôi!

    ***

    Giáo Hội của Đức Giêsu chỉ có thể được xây dựng vững chắc trên những tâm hồn chọn Ngài là lẽ sống cuộc đời mình, coi Ngài là «viên ngọc» quý giá hơn tất cả mọi thứ của trần gian, sẵn sàng hy sinh tất cả, kể cả bản thân, để đạt được «viên ngọc» ấy. Giáo Hội rất cần những Kitô hữu như thế như «những viên đá sống động» (1Pr 2,5) để Giáo Hội xây trên nền tảng đó trở nên vững chắc hơn, không một thế lực nào lay chuyển được. Giáo Hội sở dĩ vững bền đến ngày nay là vì thời nào trong Giáo Hội cũng có những vị thánh, những nhân chứng sống động đã tin vững mạnh vào Đức Giêsu, đã chọn Ngài làm lẽ sống, và đã thật sự sống tinh thần yêu thương theo gương Ngài suốt cuộc đời.
    Cám ơn quí vị, xin mời vào trang sau đây:
  • NGỌN NẾN NHỎ
  • Wednesday, August 17, 2005

    Chị Cả Bống

    Phạm Lưu Vũ


    Lời Giới Thiệu: Truyện ngắn Chị Cả Bống xuất hiện đầu tiên trên báo Người Hà Nội, số ra ngày 8/6/05. Lập tức toàn bộ số báo bị tịch thu. Ông phó tổng biên tập cho in bài "nổi loạn" này bị mất chức. Tác giả đang bị công an hù dọa liên tục. Hiện tại số báo ngày 8/6 này đang được phô tô truyền tay nhanh chóng tại Hà Nội, vượt xa cả số phát hành chính thức là 2000 tờ. Những số báo đã lỡ gởi ra trước khi có lệnh tịch thu mà các đại lý nhanh tay giấu được ngay lập tức được bán với giá gấp 10 lần (20.000 đồng một tờ). Tại Sài Gòn nơi tác giả lấy bối cảnh để viết, giá lên gấp hai mươi, ba mươi lần.

    Chiều tà, một người đàn ông phóng như ngựa phi nước đại về phía tây thành phố, nơi ấy có nhà tù với cái tên rất đẹp là "Hoà khí". Tới cổng gác, ông ta trình thẻ căn cước cho lính canh. Sau khi xem chứng minh thư, lính canh dẫn ông vào văn phòng nộp hồ sơ. Một người đứng tuổi đeo kính trắng nhận hồ sơ rồi bảo:

    - Dẫn tới khu nhà chờ, đợi thẩm tra hồ sơ, ba tuần sau có kết quả.

    Lính canh lại dẫn ông ta đi, khu nhà chờ gồm vài dãy nhà cấp 4 sập xệ và rêu mốc, rất đông người ở kín các gian phòng, đàn ông, đàn bà, lớn bé, già trẻ, đủ cả... Điều kiện sinh hoạt rất tồi tệ song không ai ta thán, đơn giản họ chỉ ở lại đây có vài tuần. Từ khi lập ra khu nhà chờ này không lúc nào vơi người. Ngày nào cũng có người đi lại, ngày nào cũng có người đến. Giống như người đàn ông kia, mọi người chờ thẩm tra hồ sơ, nếu đủ tiêu chuẩn sẽ được vào tù. Tiêu chuẩn đơn giản nhưng không phải không kỹ càng, chỉ những người lương thiện không dính tý lưu manh nào mới được vào tù. Tất nhiên lũ bất lương đừng hòng bén mảng tới.

    Chẳng ai lấy làm ngạc nhiên, ở xứ xở này, không có chuyện gì là không xảy ra kể cả những chuyện ngược đời, đơn giản mọi người không những thích đùa mà còn đùa rất dai; 5 giờ rưỡi sáng, kỹ sư Hoàng thức dậy, vợ và đứa con trai mười tuổi của anh đang ngủ say. Đứa con gái 17 tuổi của anh đêm qua không về, chị giúp việc cũng đã dậy từ lúc nào, đèn dưới bếp hắt lên mấy vệt sáng le lói qua khe cửa. Mười phút cho việc vệ sinh cá nhân, 25 phút cho việc mở các loại cửa. Như mọi nhà trong thành phố, từ lâu anh đã biến căn hộ của mình thành một pháo đài. Các cửa sổ ngoài việc lắp chấn song bằng thép dày, còn được giằng ngang ba ống thép to bằng cổ tay, chia đều từ trên xuống dưới. Cửa đi cũng bằng thép đúc, bên ngoài dán một lớp gỗ mỏng. Tính từ trong ra đến cửa, còn năm lớp cửa như thế, tất cả đều có khoá đặc biệt, mỗi cửa gồm ba chiếc khác loại nhau. Mở đến lần cửa cuối cùng thì vợ con anh cũng vừa trở dậy. Những việc chuẩn bị cho một ngày mới diễn ra đã thành nếp. Sau khi dặn dò kỹ lưỡng chị giúp việc hai vợ chồng dắt xe đi làm. Chị kiêm thêm nhiệm vụ đưa con tới trường, chiều về ghé qua chợ mua thức ăn cho ngày hôm sau. Trước khi ra cổng, anh một lần nữa kiểm tra trên người vợ con xem có đeo bất cứ loại trang sức nào không, nhắc vợ cẩn thận kẻo bị cướp... Anh lại lần lượt khoá tất cả các cửa từ trong ra ngoài, trong lúc vợ đứng giữ xe. Đứng bên ngoài thò tay qua các lỗ cửa thực hiện những thao tác của người mù, mười phút nữa cho công việc ấy, xong xuôi vợ chồng con cái chia thành hai ngả phóng xe đi.

    Kỹ sư Hoàng làm việc tại một cơ quan thiết kế gần trung tâm thành phố. Mới ngoài 40 mà tóc anh đã gần như bạc trắng, thằng con trai lớn 19 tuổi đang ở trung tâm cai nghiện, đứa con gái thứ hai 17 tuổi đua đòi chúng bạn bỏ cả học đi vũ trường thâu đêm, suốt sáng. Không phải vợ chồng anh không biết dạy con mà là bất lực. Con đường đời biết bao nhiêu cạm bẫy, nó gài khắp mọi nơi, mọi chốn, gài trên mỗi bước chân. Già đời chững chạc như vợ chồng anh, ngày nào cũng phải nhắc nhau từng tí một mà vẫn ngay ngáy lo rằng không biết lúc nào, cái bẫy nào sẽ ụp xuống mình đây?

    Kỹ sư Hoàng chợt lạnh người. Có tiếng còi nghe rợn tai, một cảnh sát giao thông bước quả quyết từ trên vỉa hè xuống đường vừa tuýt còi, vừa chỉ thẳng cái dùi cui vằn vện vào mặt anh, một cảnh sát khác ngồi vắt vẻo trên yên xe máy phân khối lớn sơn màu trắng. Chưa kịp hiểu mình có sai luật hay không anh vội đạp phanh, chiếc xe dừng tắp lại.

    - Kiểm tra giấy tờ!

    Người cảnh sát vừa rút chiếc còi ra khỏi miệng vừa giơ tay lên mũ chào như một cái máy, vừa ra lệnh cho anh. Cầm giấy tờ của anh đưa cho anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, anh cảnh sát ấy lại tiếp tục đút còi vào miệng cầm gậy trỏ xuống đường chọn bắt xe khác. Anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, lướt qua đống giấy tờ của một anh khác. Không nói năng anh ta đưa mắt ngó lơ đi chỗ khác như thể chờ ai đến đọc giùm. Cũng như một cái máy, kỹ sư Hoàng dựng xe, móc bóp, rút ra một tờ đẹp đẽ vuông vắn có in hình lãnh tụ, bước tới chỗ anh ta.

    Đến cơ quan, vừa kịp giờ làm việc, chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia là một thẩm phán toà án, người đang xử lý vụ kiện đòi nợ của cơ quan anh. Bằng một giọng rất lễ phép anh thẩm phán nhắc khéo anh rằng vụ kiện của cơ quan anh sẽ có thể bị đình chỉ vì phía anh chưa nộp chi phí cho việc thẩm tra. Nhân tiện anh ta nhắn rằng bữa nhậu chiều qua vì điện thoại cho anh không được mà anh ta và đám chiến hữu bên viện kiểm soát phải ký nợ nhà hàng một khoản kha khá, lúc nào anh ghé qua thanh toán giùm...

    Chiều hôm đó về nhà, kỹ sư Hoàng chưa kịp mừng vì tin cô con gái đã trở về đang nằm bẹp trên gác thì đã nghe vợ mếu máo báo tin chiếc xe máy của chị bị cướp, mẹ con phải đi bộ về. Thực ra chị đã dối anh, chiếc xe máy đó chị đã buộc phải thế chấp để chuộc cô con gái từ cái động của một mụ tú bà, vì cô còn nợ mụ một khoản tiền vay mua son phấn với mức lãi 40 % một ngày. Thế coi như của đi thay người. Kỹ sư Hoàng chưa kịp phát điên lên vì giận dữ thì may quá nhà có khách. Ông trưởng khu phố và mấy cán bộ của Uỷ ban lừng lững bước vào:

    - Chúng tôi đến nhắc anh về khoản đóng góp xây nhà tù - Ông trưởng khu vào đề ngay, nhân tiện báo để anh biết tháng trước có xe chở vật liệu đến đây, anh đã thuê thợ sửa nhà mà không xin phép. Uỷ ban đã nắm được việc này, nếu anh không thu xếp ngay thì sẽ bị lập biên bản thu giữ giấy tờ nhà, giấy tờ đất.

    Kỹ sư Hoàng ngớ ra, quả thật tháng trước anh có thuê thợ lắp thêm một lần cổng nữa, phải xây mấy mét vuông tường, tưởng việc nhỏ, không phải xin phép, ai ngờ... Thôi đành "thu xếp" cho mấy vị trong Uỷ ban, nhưng còn khoản đóng góp xây nhà tù ?

    - Can phạm bây giờ nhiều quá ông trưởng khu phố giải thích. Đấy anh xem, trong nhà gặp lưu manh, ra đường đụng kẻ cướp, đủ các kiểu ăn cướp; rồi còn lũ ăn trộm, lừa đảo cho vay nặng lãi, nhà tù nào cũng chật ních, phải xây thêm. Ngân sách không kham nổi phải áp dụng phương pháp "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Phố ta được giao chỉ tiêu góp vốn xây 500 mét vuông nhà tù, thế mà ngẫm lại vẫn chưa đủ cho số tội phạm của chính phố ta đang nằm trong đó, chưa kể số sắp phải vào tù nay mai...

    Đoàn cán bộ khu phố về được một lúc thì lão Tiến cụt giò đến, đó là một lão già vô tích sự nhà kế bên. Lão bị cụt một bên giò từ hồi chiến tranh, giờ sống bằng số tiền thương tật, thỉnh thoảng con cháu dấm dúi gặp chăng hay chớ cho thêm. Suốt ngày chẳng làm trò gì, chỉ hay la cà hết nhà này đến nhà khác kiếm câu chuyện làm quà. Nhà kỹ sư Hoàng là một trong những nơi lão hay mò đến. Lão dở hơi ấy liến thoắng như thể đã tỏ tường mọi chuyện:

    - Họ đến đòi tiền đóng góp xây nhà tù phải không? Anh kỹ sư này tôi nói anh xem có đúng không nhé: - Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá, phải góp tiền xây nhà tù cho bọn bất lương ở, lại còn phải nai lưng nuôi chúng nữa, trong khi bọn lưu manh ngày càng chiếm đa số, người lương thiện ngày càng giảm đi. Biết đâu đến một lúc nào đó, những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình. Khi ấy tất nhiên bọn lưu manh tha hồ ở ngoài, vì lương thiện bây giờ đâu có nhiều nhặn gì, vừa bắt chính bọn chúng phải nai lưng ra làm đề nuôi người lương thiện, như thế có phải là công bằng không ?

    Kỹ sư Hoàng phì cười vì cái lý sự ấy của lão Tiến cụt, vừa lúc ấy, chuông điện thoại trong nhà đổ dồn, vợ anh nghe xong, mặt tái mét ra báo tin dữ:

    - Anh tới ngay bệnh viện Chúng Sinh. Thằng Phúc con chị cả bị cướp giật té xe, chấn thương sọ não đang nằm cấp cứu trong ấy.

    Chị Cả Bống là chị gái kỹ sư Hoàng ở dưới quê, anh chị có ba thằng con trai thì hai thằng lớn theo bố làm nghề xin đểu kiêm trấn lột ở bến đò Đuôi Cáo bị đâm lòi ruột, chết cả ba bố con từ năm kia. Cũng là cái số thôi. Làng khối người làm nghề ấy hoặc hao hao nghề ấy mà có sao đâu, chỉ thỉnh thoảng lại thấy đi ở tù, vài năm về còn lưu manh hơn trước. May còn lại một mình thằng út tên Phúc ngoan, hiền, học giỏi. Năm ngoái đỗ đại học lên ở ký túc xá. Nó thương cậu mợ Hoàng nghèo nên không muốn nhờ vả. Chị Cả bán hết mảnh vườn còn lại sắm cho nó cái xe máy cũ làm phương tiện đi lại. Hôm ấy đang làm cỏ ngoài đồng có người gọi về cái trạm điện thoại công cộng ở đầu làng báo tin nó bị nạn. Chị nghe nhắn lại mà muốn quỵ luôn xuống ruộng. Vội vã chạy về nhà, chị vét vội mấy bơ lạc, bơ gạo nếp cho vào mấy cái bao ruột tượng tất tả chạy ra bến đò Đuôi Cáo. Vừa mới mon men gạ bán ở các hàng quán quanh đó, bất ngờ gặp mấy anh quản lý thị trường, chị bị bắt vào trụ sở. Lạy van thế nào họ cũng không nghe, còn dẫn hết "nghị định 01" đến "thông tư 04" gì đó ra đọc sang sảng vào hai cái tai đã chỉ còn nghe thấy tiếng lùng bùng của chị. Kết quả mấy bơ lạc ấy bị tịch thu vì lý do bao bì không có nhãn hiệu hàng hoá!

    Thật khốn khổ cho chị, chỉ do cuống lên vì đứa con cuối cùng còn sót lại đang gặp nạn, muốn bán tống bán tháo mấy món tài sản ít ỏi ấy cho thật nhanh để lấy tiền đi xe lên thành phố. Chứ có phải chị buôn gian bán lận gì đâu ? Còn tiền thuốc thang, nói dại, nếu nó bị nặng chị chưa biết sẽ trông vào đâu, một viên thuốc cảm bằng cái cúc áo bây giờ giá bằng ba bốn cân thóc. Giờ thì ngay đến việc lên nhìn mặt con cũng bị chặn đứng lại rồi. Không có tiền ai người ta cho chị đi xe hàng trăm cây số? Càng nghĩ chị càng quýnh quáng chân tay, cuống cuồng, đứng chôn chân một chỗ, đầu óc mụ đi, mắt ráo hoảnh, vô hồn nhìn phía trước như một bức màn sương... bỗng từ trong cái màn đục lờ ấy, một bóng trắng hiện ra quằn quại, máu bê bết hiện ra chập chờn lúc xa xa, lúc ập ngay trước mặt, gió lạnh quất gai người. Phảng phất màu tanh của máu tươi. Tai chị nghe rõ ràng tiếng kêu cứu của đứa con trai. Chị bàng hoàng nhận ra đó là tiếng rên từ địa ngục, tiếng của một âm hồn không còn ở cõi nhân gian này nữa:

    - Mẹ ơi, con chết rồi. Họ đang mổ bụng con. Mẹ ơi...

    Chị cả Bống hốt hoảng lao tới, giơ hai tay túm lấy bóng con, chợt cái bóng như có người giằng lấy, chập chờn quăng qua quăng lại trước mặt chị rồi mờ dần mờ dần, vẫn còn ri rỉ tiếng kêu cứu của oan hồn, rồi tất cả lịm đi. Cả tiếng kêu cứu lẫn cái bóng máu me chợt tắt ngấm bởi một tràng cười ré lên sằng sặc như của lũ ma quỷ nhưng không phải vọng lên từ địa ngục, tiếng cười ấy rõ ràng đang ở cõi nhân gian hiện hữu này...

    Chị cả Bống sau này phát điên không về làng nữa, cứ lê la liếm láp ở quanh cái bến đò có cái tên rất ấn tượng là bến đò Đuôi Cáo ấy. Nhưng chị không điên ngay lúc đó, có người chứng minh là sau khi ra khỏi trụ sở ban quản lý thị trường chị vẫn còn tỉnh táo nhớ ra trong người còn sót mấy đồng tiền lẻ. Chị lần vào trạm điện thoại công cộng gọi điện báo cho cậu em trai. Đó là tất cả những gì chị làm được cho đứa con. Sau đó chị mới phát điên.

    Kỹ sư Hoàng đến bệnh viện Chúng Sinh thì trời đã tối. Tìm tới phòng cấp cứu, anh hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, cô hộ lý mặc blu trắng bảo:

    - Biết ai là phúc với hoạ gì ở đây. Đi mà hỏi trực ban.

    Phòng cấp cứu rộng mênh mông, đầy những giường là giường, giường nào cũng ít nhất hai người nằm trở đầu đuôi. Đủ các kiểu tai nạn, vỡ đầu, gãy chân, lòi ruột, lòi xương. Ánh đèn nê ông trắng bệch soi loang lổ những máu me bông gạc. Nồng nặc một thứ mùi vừa tanh tanh máu, vừa ngầy ngậy thuốc tây. Bóng những blu trắng đi qua lại giữa các giường như ma trơi. Làm sao nhận ra đứa cháu bây giờ ?

    Kỹ sư Hoàng vội vã đến phòng trực ban. Phòng trực ban cấp cứu nằm cuối dãy hành lang đầy những kẻ nằm người ngồi vạ vật rất chi là bệ rạc. Trong phòng có mấy người cũng mặc blu trắng đang chụm đầu bàn bạc nhỏ to:

    - Cái mật hôm trước bán vội quá. Ngay hôm sau có người tới trả cao hơn cả chục triệu, tiếc đứt ruột - một người nói

    - Cái này đếch bán nữa, đem ngâm rượu. Hũ rượu trước hết con mẹ nó rồi. Mấy lão hen suyễn kinh niên uống vào là khỏi, để giành bán cho các lão ấy. Gớm họ vừa chi tiền vừa cám ơn rối rít ấy chứ - một người khác nói

    - Thôi được rồi! Người thứ ba nói - các ông xuống làm ngay đi, thằng này căn cước ghi rõ ràng: - 19 tuổi. Đã kiểm tra, đảm bảo còn nguyên dương (đàn ông chưa xuất tinh lần nào) chết do chấn thương sọ não vừa được mấy phút. Cái mật này mới tuyệt hảo, để quá hai tiếng có mà hỏng mẹ nó cả chì lẫn chài. Đã điện thoại cho bên công an rồi, họ bảo cứ mổ đi, có gì đừng "quên" họ là được.

    Hai người kia vội vã đứng dậy lao nhanh ra khỏi phòng, vừa lúc ấy kỹ sư Hoàng bước vào:

    - Bác sĩ làm ơn cho hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, 19 tuổi, sinh viên năm thứ hai, nghe nói bị chấn thương sọ não có cấp cứu ở đây không, nằm giường số mấy? Tôi là cậu ruột cháu - kỹ sư Hoàng vừa hỏi vừa tự giới thiệu
    Anh bác sĩ còn lại trong phòng thoáng một chút giật mình. Anh ta làm như nghĩ ngợi điều gì rồi ngập ngừng:

    - Tên Phúc, sinh viên, 19 tuổi.. A... anh... à bác ngồi chờ cháu một lát.

    Linh cảm thấy có gì nghiêm trọng xảy đến với đứa cháu, lại cứ tưởng anh bác sĩ kia vì thông cảm với nỗi đau của mình mà chưa nỡ nói ngay. Kỹ sư Hoàng vừa lo sợ vừa cảm động nhìn anh bác sĩ đang cúi gằm mặt, tay lần giở một cuốn sổ to tướng chậm rãi lần một hồi. Mồ hôi đã toát ra lấm tấm trên khuôn mặt đỏ như gà chọi, anh bác sĩ chợt ngẩng lên bảo:

    - Trong sổ này không thấy có tên Phúc. Bác ngồi đây chờ cháu đi lấy sổ khác. Nhớ là đừng đi đâu đấy.

    Nói xong anh ta gập sổ rồi vội vã ra khỏi phòng, không quên đóng sập cửa lại, còn một mình trong phòng, kỹ sư Hoàng lòng như lửa đốt. Bỗng chuông điện thoại reo vang, một hồi, hai hồi... chừng như người đầu dây bên kia có việc cần gọi cho bằng được. Kỹ sư Hoàng do dự giây lát rồi nhoài người với lấy cái ống nghe, định nói cho bên kia chờ lát nữa gọi lại. Vừa áp ống nghe lên tai, kỹ sư Hoàng chợt nghe ngay một giọng nói dằn từng tiếng:

    - Trực ban cấp cứu phải không? Bảo với pháp y rằng cái mật lần này tuyệt đối không được bán nghe chưa! Chú Sáu bên Uỷ ban đăng ký rồi đấy.

    Kỹ sư Hoàng chưa kịp hiểu mô tê ra sao thì người đầu dây bên kia đã dập máy. Sau khi định thần suy nghĩ kết hợp với mấy câu cuối nghe được loáng thoáng lúc mới bước vào phòng, kỹ sư Hoàng chợt lạnh người với một nỗi nghi ngờ. Anh với cuốn sổ lúc nãy mở ra. Ngay giữa trang cuối cùng, rõ ràng có tên nạn nhân Nguyễn Hồng Phúc, 19 tuổi, sinh viên, té xe, nhập viện lúc... giờ... ngày - người đưa đến: Phạm văn A - bạn cùng lớp. Bỗng cánh cửa sịch mở, anh bác sĩ khi nãy ùa vào. Nhìn thấy cuốn sổ trên tay kỹ sư Hoàng, anh ta thoáng một giây bối rối rồi lập tức liến thoắng:

    - Cháu quên không đọc trang cuối, đúng là có...

    Anh ta chưa kịp nói hết câu kỹ sư Hoàng đã ngắt lời:

    - Tôi biết hết rồi, anh không phải giải thích

    Rồi chẳng muốn nói gì thêm nữa, kỹ sư Hoàng ném trả cuốn sổ, hấp tấp lao nhanh ra khỏi phòng, anh bác sĩ hé cửa ngó theo, hơi lắc đầu, mỉm một nụ cười ý nhị rồi đóng cửa lại, ung dung quay vào. Chuông điện thoại lại reo, anh ta cầm lấy ống nghe:

    - Dạ... dạ... à thế ạ... Báo cáo, xong xuôi cả rồi ạ. Thế thì chú nói chú Sáu chuẩn bị rượu tốt để ngâm, cháu sẽ bảo anh em mang sang ngay bây giờ ạ.

    Kỹ sư Hoàng xuống đến nhà xác thì Phúc đã nằm trong ngăn lạnh. Một không khí thê lương sặc mùi tử khí. Nền nhà vương đầy những bó nhang cụt, những cục nến gãy, những mẩu giấy tiền vàng mã... làm quang cảnh nơi đây giống như vừa xảy ra một vụ cướp. Viên quản lý nhà xác nghe trình bày, quan sát anh từ đầu đến chân bằng cặp mắt âm u như cặp mắt quỷ rồi chẳng nói chẳng rằng, ông ta lừ lừ tiến đến kéo một ngăn tủ ra. Kỹ sư Hoàng lạnh toát người nhìn trân trân cái xác... "Đúng thằng Phúc rồi, chị Cả ơi, khổ thân chị quá"... Không giữ nổi bình tĩnh, anh khuỵu xuống gục đầu vào ngăn tủ. Mùi máu tanh tưởi ập vào giác quan. Anh chợt tỉnh, ngẩng phắt lên, lấy tay lật manh áo trước bụng đứa cháu... một vết mổ cẩu thả còn chưa khít miệng với mấy mũi khâu vội vàng, dúm dó :

    - Các người đã mổ cháu tôi... các người đã... Tôi sẽ kiện, kỹ sư Hoàng gào lên trong nước mắt

    - Híc... viên quản lý nhà xác cất tiếng, giọng cũng âm u như phát ra từ bụng gã - Tha hồ cho ông kiện, tất cả những cái chết bất đắc kỳ tử thế này đều phải mổ hết, luật pháp quy định như vậy. Hừ có mà điên mới đi kiện luật pháp. À mà tôi đã vi phạm nội quy khi cho ông xem xác, lấy gì chứng minh ông là người nhà bây giờ? Mời ông đi khỏi đây. Nói xong gã đưa tay đóng sập ngăn tủ lại

    - Nhưng tôi... kỹ sư Hoàng chưng hửng ... vậy còn cháu tôi ?

    - Trước hết phải có giấy tờ chứng minh ông là người nhà của nạn nhân đã, rồi sau đó phải làm đầy đủ thủ tục mới mang được lấy xác ra khỏi đây. Mà ông định cõng xác trên lưng mang về hay sao? Viên quản lý lạnh lùng phán.

    Kỹ sư Hoàng có vẻ hiểu ra những việc cần làm, anh thất thểu bước ra khỏi nhà xác gọi điện về nhà bảo vợ chuẩn bị căn cước, sổ hộ khẩu lên phường xin giấy chứng nhận rồi tìm đến một tiệm bán quan tài. Ông chủ tiệm quan tài có tên "Nhân nghiã đường" hăng hái đón khách. Chỉ vào đống quan tài đủ các kiểu loè loẹt đang bày la liệt, bảo kỹ sư Hoàng :

    - Tuỳ bác chọn cái nào thì chọn. Bác cho biết địa chỉ, số nhà, giờ khâm liệm... chúng tôi sẽ cho người đến lo liệu.

    - Không phải liệm ở nhà mà là ở nhà xác bệnh viện chúng sinh. Kỹ sư Hoàng ngắt lời

    - Thế thì không được rồi. Ông chủ Nhân nghiã đường lắc đầu - tôi không bán được cho bác đâu, cũng không làm gì được hết.

    - Tại sao lại như thế ? Kỹ sư Hoàng kinh ngạc thốt lên?

    - Chắc đây là lần đầu tiên nhà bác có người chết ở bệnh viện - ông chủ Nhân nghiã đường giải thích - bệnh viên có luật của họ, muốn lấy được xác ra phải có cửa. Quan tài mua tiệm nào do họ chỉ, khâm liệm, ma chay... tất tần tật do người của họ làm hết. Có thế họ mới ăn chứ, độc quyền mà.

    - Té ra phải như vậy.

    Kỹ sư Hoàng cay đắng nghĩ rồi rời khỏi tiệm "Nhân nghiã đường". Quay lại chỗ nhà xác chờ một lúc lâu thì vợ anh mang giấy tờ tới. Mấy đứa bạn học của Phúc biết tin cũng đã tìm đến, mang theo nhang hoa và trái cây. Lúc này đêm đã gần khuya, mắt đỏ hoe vợ anh mếu máo:

    - Ối anh ơi, vẫn chưa thấy tăm hơi chị cả đâu, em đến nhà ông chủ tịch nói mãi ông ấy mới ký cho cái giấy chứng nhận, lại vừa đóng lệ phí, vừa bồi dưỡng hết mấy trăm. Cháu nó nằm đâu để em vào thắp nén nhang cho cháu.

    Kỹ sư Hoàng dẫn vợ và đám bạn của Phúc vào, trình mớ giấy tờ cho viên quản lý. Gã này săm soi một lát rồi lắc đầu :

    - Không được, trường hợp này công an còn phải điều tra, vả lại khi nãy ông còn định kiện tụng gì nữa cơ mà ? Sáng mai đến giải quyết

    - Chẳng lẽ để đứa cháu lạnh lẽo qua đêm không một chút khói nhang an ủi linh hồn? Kỹ sư Hoàng lúc này đã mụ mẫm hết tinh thần, cụt què cả ý chí, anh chỉ còn biết vớt vát như một cái máy :

    - Tôi xin ông, ấy là tôi chót nhỡ mồm. Tôi không kiện tụng gì đâu. Mọi việc giao cho các ông "lo" hết. Chỉ mong sao mang cháu về nhà...

    - Vậy thì về viết cam đoan đi, viên quản lý hạ giọng - nhưng cứ phải sáng mai mới giải quyết. Không có giấy của công an thì bố tôi cũng không dám giao xác cho các người.

    Sáng sớm hôm sau. vừa thò mặt đến cổng nhà xác bệnh viện Chúng Sinh đã có mấy kẻ mặt mũi rất chi là khả nghi túm lấy kỹ sư Hoàng.

    - Xác của bác là xác tai nạn giao thông phải không ? Giá chót tám triệu, chúng em lo mọi thủ tục chiều lấy xác ra... quan tài khâm niệm 12 triệu nữa bao trọn gói - một người trong bọn bảo

    - Tại sao lại phải đến chiều ? Làm ngay trong sáng nay không được sao? kỹ sư Hoàng hỏi lại

    - Hì các bác này đúng là chưa "chết" lần nào. Phải đợi công an người ta hoàn tất hồ sơ chứ... một người khác giải thích - mà chúng em phải đưa bác đến làm tờ khai, chiều lấy được là con nhanh, với điều kiện phải có bồi dưỡng... không thì cứ đợi đấy.

    Đám người ấy quả là thạo việc, rốt cục chiều hôm ấy kỹ sư Hoàng cũng đưa được xác đứa cháu về nhà sau khi đã được khâm liệm cẩn thận. Vẫn không thấy bóng dáng chị cả đâu, linh tính xảy ra chuyện chẳng lành, kỹ sư Hoàng bàn với vợ cùng mấy đứa bạn của Phúc trông nom nhang khói, để anh về làng đón chị Cả lên:

    - Có mấy kẻ lạ mặt lảng vảng ngoài cổng nghiêng ngó hỏi thăm, mấy đứa bạn của Phúc chạy ra nghe ngóng rồi vào bảo:

    - Mấy thằng cò nghiã địa bác ạ. Nó bảo đất chôn mặt tiền lối đi là 12 triệu, phía trong tám triệu, chưa kể tiền lo giấy phép chôn và công đào huyệt lấp đất xây mộ, tuỳ theo to nhỏ tính riêng. Nếu túng tiền thì chôn đứng. Chôn đứng rẻ hơn một nửa, tất nhiên đất rộng chỉ bằng 1/3. Nghiã địa bây giờ khối người phải chôn như thế, thành ra đầy những ma đứng, linh hồn đứng, đứng vĩnh hằng.

    Vội vã phóng về quê, kỹ sư Hoàng hoảng hốt lạnh người khi hàng xóm bảo chị Cả Bống đã lên thành phố từ chiều hôm qua, mấy nhà khác thấy anh về đổ đến hỏi thăm. Có người chợt nhớ ra bảo:
    - Sáng nay đi chợ thấy ở bến đò Đuôi Cáo có ai nhang nhác bác Cả Bống ấy. Hay là bác sang tìm thử xem.

    Không kịp suy tính, kỹ sư Hoàng vội vã lao sang bến đò, tìm khắp các hàng quán hỏi thăm, ai cũng lắc đầu. Chợt anh nhìn thấy dưới bờ sông sát mép nước, một người đàn bà đầu tóc rũ rượi đang ngồi ném những nắm cát xuống dòng sông... kỹ sư Hoàng vừa nghi hoặc, vừa thận trọng tiến lại gần...

    "Ai như chị Cả? Anh cất tiếng gọi... một tiếng, hai tiếng... Người đàn bà chợt quay phắt lại... Đúng là chị, chị nhìn anh với đôi mắt thất thần, khuôn mặt răn reo, lem luốc cát. Bỗng chị lảo đảo lao đến, ôm chầm lấy anh, gào lên nức nở:

    - Ối ! Con ơi, con về với mẹ đây rồi, người ta cướp cái gì của con, con chết có đau không? Con về đây báo oán mẹ... mẹ không đến được với con... con ơi

    Cứ thế chị gào mãi, gào mãi, tiếng gào rợn cả một khúc sông. Kỹ sư Hoàng hai tay nâng khuôn mặt chị, miệng hoảng hốt nhắc đi nhắc lại:

    - Em đây mà, Hoàng đây mà!

    Song chị đâu có nghe, đâu có thấy, chỉ một mực gào tên con... dần dần tiếng chị khản đặc chỉ còn như tiếng thở lào phào... Người chị bỗng lả đi, từ từ khuỵ xuống. Kỹ sư Hoàng quỳ xuống theo, hai chị em ôm nhau quỳ trên bãi cát, hoàng hôn bắt đầu buông, trăng chiều rực lên đỏ thẫm. Qua màn nước mắt, anh cảm thấy tất cả không gian như chìm trong biển máu, bên tai anh chợt vọng lên văng vẳng giọng nói của lão Tiến cụt hôm trước:

    - Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá... biết đâu đến một lúc nào đó những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình. /.
    Cám ơn quí vị, xin mời vào trang sau đây:
  • NGỌN NẾN NHỎ
  • Linh Mục Chân Tín Trình Bầy

    Về Vấn Đề Tự Do Tôn Giáo Tại Việt Nam


    Linh mục Chân Tín đã được Dân biểu Christ Smith mời trình bầy về vấn đề tôn giáo tại Việt Nam trong cuộc điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ trưa thứ hai 20-6-2005. Vì Việt cộng không để cho Cha xuất ngoại nên bài thuyết trình của linh mục Chân Tín đã được bổ sung trong những văn kiện chính thức của cuộc điều trần. Sau đây là bản dịch nguyên văn bài trình bầy nói trên. (VNN)


    Việt Nam, ngày 20-6-2005

    Kính thưa Quí Vị,

    Chúng tôi là linh mục Chân Tín, một linh mục tại Việt Nam, xin trình bày với Quí Vị một vài điều nhân dịp Thủ Tướng Phan Văn Khải sang viếng thăm Quí Quốc. Chúng tôi rất mong cuộc viếng thăm này là một dịp để Quí Vị đòi hỏi Việt Nam phải thật sự tôn trọng các quyền căn bản của người dân nước mình, đặc biệt quyền tự do tôn giáo, như một điều kiện không thể không có (sine qua non) để hai nước Hoa Kỳ và Việt Nam có thể quan hệ bình thường với nhau. Vì hiện nay, nhà nước Cộng Sản Việt Nam vẫn còn đang đàn áp các tôn giáo và hạn chế quyền tự do tôn giáo của người dân chừng nào có thể.

    Trước hết, đại diện cho dân Việt Nam, đặc biệt các tín đồ tôn giáo tại Việt Nam, chúng tôi xin chân thành cám ơn những nỗ lực quí giá của Quý Vị trong việc tạo áp lực buộc nhà nước Việt Nam phải tôn trọng những quyền căn bản và chính đáng của dân mình. Suốt thập niên qua, đặc biệt từ khi Hoa Kỳ liệt Việt Nam vào danh sách những nước cần quan tâm, quả là nhà nước Cộng Sản Việt Nam đã phải lùi từng bước trong việc đàn áp người dân trước những nỗ lực đấu tranh đầy lòng nhân ái của Quý Vị. Thật vậy, nhà nước Việt Nam đã phải ngày càng nới lỏng tự do về tôn giáo hơn.

    Nhưng sự nới lỏng này chỉ là một cách đối phó với những áp lực quốc tế, nhất là của Quốc Hội Hoa Kỳ và Quốc Hội Âu Châu, đòi buộc Việt Nam phải tôn trọng tự do tôn giáo. Nhưng thực ra, nhà nước Việt Nam không thật lòng muốn cho các tôn giáo được tự do. Vì thế, nhà nước Việt Nam đã cố gắng lừa dối quốc tế được chừng nào có thể, bằng cách chỉ cho người dân được tự do tôn giáo trong những gì bên ngoài mà quốc tế nhìn thấy được. Còn trong thực tế chiều sâu, nhà nước vẫn nỗ lực hạn chế tối đa quyền tự do này, và sẵn sàng ra tay đàn áp, bắt bớ, khó dễ những tôn giáo nào không chấp nhận sự kiểm soát gắt gao của họ. Trường hợp Giáo Hội Mennonite và các Giáo Hội Tin Lành Tư Gia, đặc biệt tại vùng Cao Nguyên miền Trung, là những thí dụ cụ thể.

    Hiện nay tình trạng tự do tôn giáo tại Việt Nam chỉ mới đạt được cái vỏ bên ngoài, chứ thực chất ở bên trong thì chưa có. Chúng ta có thể lấy một hình ảnh cụ thể để minh họa tình trạng này. Có hai quả trứng, một quả thật, và một quả đã bị rút hết ruột bên trong. Nếu chỉ nhìn bằng mắt, ai cũng thấy đó là hai quả trứng y như nhau, tốt như nhau. Người ta chỉ có thể phát hiện ra quả trứng bị rỗng ruột khi họ được thật sự cầm nó trên tay, vì thấy nó nhẹ hơn quả kia rất nhiều lần.

    Thật vậy, người ngoại quốc mà đến thăm Việt Nam, thấy khá nhiều nhà thờ, chùa chiền được xây cất khang trang, giáo dân xem lễ Chúa Nhật chật ních mọi nhà thờ, các Phật tử đến chùa rất đông đảo vào những dịp lễ hội, các chủng viện được mở có khá nhiều chủng sinh, những buổi thuyết pháp tại chùa rất đông người đến dự, nhiều hội đoàn công giáo tiến hành (communities of apostolical action) được hoạt động... sẽ nghĩ rằng rõ ràng Việt Nam đã có tự do tôn giáo. Làm sao những người ngoại quốc ấy biết được tại những vùng sâu vùng xa, như tại Tây Nguyên, Sơn La, Lai Châu, và ngay cả tại các đô thị lớn như Sàigòn, Huế, công an vẫn đến giải tán những buổi thờ phượng, lễ bái của những tín đồ thuộc những tôn giáo không được nhà nước chấp nhận. Không những giải tán, mà còn lập biên bản, sách nhiễu, mời làm việc, có khi bắt bớ, giam cầm, tra tấn họ nữa. Nếu những tín đồ này không có phương tiện để báo cho công luận hay thế giới biết, thì những việc làm sai trái này không mấy người biết được, nên sẽ bị rơi vào quên lãng. Thời gian và sự bưng bít của chính quyền đối với những hành động đàn áp này giống như nước biển tràn vào bãi biển xóa sạch tất cả những gì đã xảy ra trên cát, để làm cho bãi biển trở nên như không có gì đặc biệt xảy ra trước đó.

    Chỉ dựa vào những gì thấy được trước mắt mà kết luận rằng Việt Nam có tự do tôn giáo là đã bị nhà nước Việt Nam lừa gạt, vì thứ tự do ấy mới chỉ là cái vỏ bề ngoài, không có thực chất bên trong. Tôn giáo chủ yếu là cái gì sâu xa ở bên trong chứ không chỉ là những hình thức, lễ nghi hay những hoạt động mặt nổi bên ngoài. Do đó, tự do tôn giáo không chỉ là được phép thực hiện những sinh hoạt tôn giáo ở bên ngoài, mà chủ yếu là phải được độc lập trong việc tổ chức nội bộ, được tự do tuyển chọn và đào tạo nhân sự, được tự do bổ nhiệm nhân sự đúng với nhu cầu chính đáng của từng địa phương. Đó là những điều chính yếu của tự do tôn giáo mà các tôn giáo tại Việt Nam không có được.

    Một tập thể có phát triển được hay không tùy thuộc rất nhiều vào người lãnh đạo. Một lãnh đạo thiếu đức độ và tài năng không những không đưa tập thể đi lên, mà có thể làm cho tập thể bị băng hoại hay đi xuống. Vì thế, tất cả các quốc gia, các tổ chức (tôn giáo, chính trị, văn hóa, kinh tế...) coi việc bầu người lãnh đạo là một chuyện hết sức quan trọng. Giai thoại sau đây nói lên điều ấy:

    Một người Thái Lan và một người Việt Nam nói chuyện với nhau:

    Người Thái: "Tôi rất khâm phục đất nước anh, vì nước anh có rất nhiều anh hùng." [1]

    Người Việt: "Thế đất nước anh có nhiều anh hùng không?"

    Người Thái: "Rất tiếc, đất nước tôi ít anh hùng lắm!"

    Người Việt: "Lạ nhỉ, đất nước tôi nhiều anh hùng thế mà sao vẫn cứ nghèo nàn và lạc hậu, còn đất nước anh không có anh hùng mà sao lại phát triển và giàu có như vậy?" [2]

    Người Thái: "À, đất nước tôi thì bù lại, được khá nhiều vị minh quân!"


    Thật vậy, chỉ một vị minh quân cũng đủ quí giá và ích lợi cho đất nước hơn nhiều anh hùng hay cá nhân xuất sắc hợp lại! Cũng y như vậy đối với các tôn giáo tại Việt Nam và những tập thể lớn nhỏ trong các tôn giáo ấy. Các tôn giáo và các tập thể tôn giáo rất cần những vị lãnh đạo đạo cao đức cả, biết hy sinh bản thân cho các tín đồ, biết can đảm bảo vệ quyền lợi thiêng liêng của tôn giáo mình, biết sáng suốt lãnh đạo và phát triển tôn giáo mình, v.v...

    Nhưng nhà nước Việt Nam luôn luôn xen vào những chuyện nội bộ của các tôn giáo. Những người có tài đức mà chúng tôi muốn bầu lên làm người lãnh đạo thì họ hầu như không bao giờ chấp nhận. Họ chỉ chấp nhận những người mà họ có thể chi phối được, những người sẵn sàng chiều theo những yêu sách của họ, chấp nhận thỏa hiệp với họ, hoặc những người kém tài đức - vì muốn được ưu đãi hoặc thăng tiến cá nhân - sẵn sàng hy sinh quyền lợi của tôn giáo cho quyền lợi của đảng đang nắm quyền. Vì thế, các tôn giáo trong đất nước chúng tôi bị trì trệ, đời sống tâm linh của các tín đồ không đi vào chiều sâu mà chỉ ngừng lại ở những nghi thức bên ngoài.

    Nếu tôn giáo nào nhất định chỉ nhận người lãnh đạo là những người mà các tín đồ bầu chọn - vì họ xứng đáng chứ không phải là người được nhà nước chấp nhận - thì lập tức vị lãnh đạo đó sẽ bị cô lập, quản chế, bị khó dễ, không được phép đi đâu hoặc hoạt động gì cả. Hòa Thượng Huyền Quang, Hòa Thượng Quảng Độ trong Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, và ông Lê Quang Liêm trong Phật giáo Hòa Hảo hiện nay là những trường hợp điển hình cho sự việc này. Trước đây, Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền, vì không chấp nhận sự lệ thuộc quá đáng vào nhà nước, không chịu thỏa hiệp với họ, nên đã gặp rất nhiều khó khăn và cuối cùng bị đầu độc chết khi phải điều trị tại bệnh viện của nhà nước.

    Để chuẩn bị cho tương lai có những người lãnh đạo tôn giáo phù hợp với đường lối nhà nước - vốn thường ngược lại với đường lối của các tôn giáo - nhà nước chỉ cho các tôn giáo nhận vào tu viện để đào tạo thành tu sĩ những thanh thiếu niên mà nhà nước chấp nhận sau khi xét kỹ lý lịch của họ. Vì thế, nhà nước có khả năng cài người của họ vào các tôn giáo để làm lũng đoạn từ trong nội bộ. Những người này có thể làm gián điệp cho nhà nước, họ vừa là những người có chức quyền trong Giáo Hội, vừa là cán bộ chìm của nhà nước. Trong cơ cấu một quốc gia mà có nhiều gián điệp của ngoại quốc thì quốc gia ấy sẽ ra sao? Cũng vậy đối với các tôn giáo. Nhất là khi nhà nước luôn luôn có chủ trương phá hoại và tiêu diệt các tôn giáo như các nhà nước cộng sản trên thế giới. Điều này thiết tưởng mọi người đều biết.

    Điều mà chúng tôi rất lo ngại hiện nay là nhà nước biết không thể tiêu diệt được các tôn giáo, nên đang cố tìm cách biến chất các tôn giáo thành công cụ hay tay sai đắc lực của nhà nước. Nếu tôn giáo nào không chấp nhận bị biến chất như thế thì lập tức bị bách hại, bị khó dễ đủ điều. Khi cán bộ đội lốt tôn giáo của họ trở thành một đội ngũ khá lớn trong nội bộ các tôn giáo, và những tu sĩ "hai mang" này được nhà nước tạo đủ mọi điều kiện dễ dàng để lên nắm những chức vụ quan trọng nhất trong các tôn giáo, thì đường lối này của họ đã thành công. Nếu không có gì cản trở họ, thì chỉ một thời gian nữa, họ sẽ thành công. Lúc đó các tôn giáo - vốn đã bị biến chất từ bên trong - sẽ được hoàn toàn tự do. Lúc đó, nhà nước Cộng Sản Việt Nam sẽ được tiếng là tôn trọng tự do tôn giáo, nhưng trong nước sẽ không còn một tôn giáo nào là tôn giáo đích thực nữa. Những tôn giáo tồn tại chỉ còn là những tôn giáo giả danh, mà thực chất là những tổ chức tay sai cho đảng Cộng Sản.

    Hiện nay, tiếng nói của những người tranh đấu cho tự do tôn giáo như chúng tôi chẳng có hiệu lực bao nhiêu đối với nhà nước Cộng sản. Vì đó chỉ là những tiếng nói của lương tâm, chẳng tạo được một áp lực trực tiếp đáng kể đối với nhà nước. Mà một nhà nước độc tài, cố bám lấy quyền lực như nhà nước Cộng sản Việt Nam thì chỉ chịu nhượng bộ, từng bước một, khi phải chịu những áp lực lớn lao và cụ thể. Vì thế, chỉ có những thế lực lớn mạnh có khả năng áp lực lên nhà nước Việt Nam như Quốc Hội Hoa Kỳ mới có thể buộc họ phải thay đổi. Trước tình trạng rất nguy hiểm là các tôn giáo tại Việt Nam đang dần dần bị biến chất xấu đi, và trong một tương lai gần có thể đến mức không còn là những tôn giáo đúng nghĩa nữa, chúng tôi tha thiết nói lên tiếng kêu cứu (S.O.S.) của mình.

    Xin Quý Vị hãy tích cực cứu giúp chúng tôi. Thiết tưởng đây là một việc làm tốt đẹp nhất mà Quý Vị có thể làm cho quê hương đất nước chúng tôi. Các tôn giáo của chúng tôi tuy vẫn tồn tại, với những sinh hoạt bên ngoài có thể rất "sầm uất," nhưng bản chất tôn giáo của chúng đang bị biến đổi dần dần thành những công cụ đắc lực cho một đảng độc tài toàn trị. Xin hãy cứu lấy chúng tôi! Chúng tôi đã bất lực rồi!

    Sau đây là một số đề nghị của chúng tôi với Quý Vị nhân dịp Thủ Tướng Phan văn Khải của Việt Nam sang thăm Quý Quốc:


    Điều quan trọng nhất là đòi hỏi Việt Nam phải để cho các tôn giáo được độc lập trong việc tổ chức nội bộ, bao gồm tự do tuyển chọn, đào tạo và bổ nhiệm nhân sự. Nghĩa là:


    a. Bãi bỏ luật buộc các thanh niên muốn vào tu viện để được đào tạo thành tu sĩ, phải xin phép và phải được sự chấp thuận của nhà nước. Nhà nước không được can thiệp vào việc việc đào tạo này, không được bắt các tu sĩ phải học lý thuyết cộng sản trong chương trình đào tạo của các tu viện.

    b. Phải để cho các tôn giáo được tự do bổ nhiệm theo tiêu chuẩn và nhu cầu của mình những người lãnh đạo các cấp, những người đào tạo các tu sĩ, các nhân sự làm việc của mình.

    c. Riêng Công giáo, phải để cho Tòa Thánh Vatican được tự do bổ nhiệm các hồng y, giám mục theo tiêu chuẩn và nhu cầu của mình.



    Cho mọi tôn giáo được tự do hoạt động không cần xin phép trong việc tụ họp thờ phượng, lễ bái, tại nhà thờ, chùa chiền, cũng như tại tư gia.


    a. Chấm dứt tình trạng cho công an đến bắt buộc các tín hữu đang sinh hoạt tôn giáo phải ngưng hoặc giải tán và lập biên bản như thể họ đã vi phạm pháp luật.

    b. Chấm dứt việc phiền nhiễu, mời làm việc với công an, hoặc bắt bớ, giam cầm các vị lãnh đạo tôn giáo chỉ vì họ hoạt động tôn giáo.



    Trả tự do cho tất cả các vị lãnh đạo tôn giáo đang bị giam cầm, quản chế, và để cho họ được tự do hoạt động tôn giáo đúng với chức năng của họ. Cụ thể là Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Linh mục Phan Văn Lợi, v.v...


    Cho các tôn giáo được tự do in, xuất bản và phổ biến sách, báo, tạp chí thuần túy tôn giáo theo nhu cầu của mình.


    Cho các tôn giáo được tự do mở trường học từ cấp 1 đến các đại học để giáo dục thanh thiếu niên như trong mọi quốc gia trên thế giới.


    Chấm dứt tình trạng xâm chiếm tài sản, đất đai, cơ sở của các tôn giáo. Trả lại ngay tất cả những đất đai, cơ sở hay tài sản của các tôn giáo mà nhà nước đã cưỡng chiếm hay bắt buộc phải cho mượn.

    Đại diện cho những người có tôn giáo ở trong nước, chúng tôi xin chân thành cám ơn Quý Vị về những gì Quý Vị đã, đang và sẽ làm để các tôn giáo trong đất nước chúng tôi được hưởng sự tự do tôn giáo thật sự, hầu các tôn giáo có thể góp phần xây dựng đất nước, nhất là về mặt đạo đức và tâm linh, vốn đang bị xuống dốc trầm trọng nơi quê hương chúng tôi.

    Và cuối cùng, xin Thiên Chúa chúc lành cho Quý Vị và tất cả những công việc tốt đẹp của Quý Vị.

    Kính thư,
    Linh mục Chân Tín.



    [1]. Cộng sản Việt nam đề cao và gọi biết bao người là anh hùng trong cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ vừa qua. Trong các sách giáo khoa từ lớp mẫu giáo trở lên lớp 12, có biết bao nhiêu chuyện kể về vô số các anh hùng trong hai cuộc chiến Mỹ.
    [2]. Việt Nam hiện này là một trong những nước nghèo và lạc hậu nhất thế giới. Trong khi Thái Lan đang trở thành một con rồng kinh tế tại Á Châu
    Cám ơn quí vị, xin mời vào trang sau đây:
  • NGỌN NẾN NHỎ
  • Từ Xóa Đói Giảm Nghèo đến Bất Công Xã Hội

    Long Tuyền


    Cuộc thăm dò mới đây về tình trạng nghèo khó tại Việt Nam đã đưa ra những kết quả tương đối khả quan về các nỗ lực xóa đói giảm nghèo, được tiến hành gần một thập niên với sự bảo trợ của một số định chế quốc tế, trong đó có Ngân Hàng Thế Giới. Năm 1995, 58% người dân sống trong cảnh nghèo khó. Năm 1998 tỉ lệ giảm xuống 37% và năm 2002 còn khoảng 29%. Tuy đáng khích lệ thật, song có vài khuyết điểm đã làm át giảm những kết quả gặt hái được trong công cuộc xóa đói giảm nghèo.

    Trước hết là nhịp độ xoá đói giảm nghèo đã chậm đi một nửa so với những năm trước. Quan trọng hơn là phương pháp chọn lựa các hộ được thăm dò dựa trên cảm quan chủ quan chứ không trên cơ sở khách quan. Đóng vai tiên quyết trong việc chỉ định ai là người nghèo là cấp lãnh đạo địa phương đã lựa lọc các hộ được gọi là nghèo. Tuy nhiên, những thành phần bị coi là lười biếng, hoặc mắc những tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc thì bị loại bỏ ra khỏi danh sách những hộ nghèo. Những người nợ nần nhiều hay những người chưa có qui chế thường trú, chưa có nhà hoặc chưa có việc làm cũng không nằm trong danh sách các hộ nghèo. Trên thực tế, chính những thành phần vừa kể thường là những người khốn khó nhất của địa phương.

    Cảm quan cũng thay đổi tùy theo mức độ giàu nghèo chung chung của mỗi địa phương. Nơi nào dư dả thì những người kém thu nhập so với chòm xóm cảm thấy mình nghèo. Trong khi đó ở địa phương nghèo thì cũng những người đó có khi lại không cảm thấy mình nghèo vì chung quanh ai ai cũng đồng cảnh ngộ. Thêm vào đó, lằn ranh của nghèo đói thay đổi tùy theo mỗi địa phương. Chẳng hạn như tại quận Bình Chánh (Thành Phố HCM) ranh giới được ấn định là 2.5 triệu đồng, trong khi đó, tại quận 8, cũng thuộc Thành Phố, là 3 Triệu Đồng.

    Tuy dựa trên phương pháp lựa chọn không khách quan, cuộc thăm dò cũng nêu ra một số khía cạnh đáng lưu tâm. Khía cạnh thứ nhất là sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn. Khía cạnh thứ nhì là sự chênh lệch giữa các vùng trong nước. Khía cạnh thứ ba là bất công gia tăng trong xã hội Việt Nam. Khía cạnh cuối cùng là sự bất bình đẳng giữa các sắc dân.

    Yếu tố địa dư ảnh hưởng lên mức độ thu nhập ra sao? Người sống ở thành thị có sác xuất có thu nhập khá hơn tại nông thôn. Tại thành thị cứ 100 người thì có 7 người nghèo, trong khi đó tại nông thôn cứ 3 người thì có 1 người nghèo. Khi xét rằng 75% người dân Việt Nam sống tại các nông thôn thì sẽ hiểu rằng các thành phố có thể ví như những ốc đảo nằm giữa đại dương của đói khổ. Cuộc thăm dò còn cho thấy rằng ở các thành phố khoảng 2% người bị đói, trong khi tại các nông thôn, nơi còn trồng cấy nhiều, tỉ lệ là 14%, tức cao hơn tại các thành phố gấp 7 lần.

    Về sự chênh lệch giữa các vùng thì nước ta được chia thành 7 vùng: Trung du và miền núi Bắc Bộ (Tây Bắc và Đông Bắc), đồng bằng sông Hồng (gồm các thành phố Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng..), Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ (gồm các thành phố TP Hồ Chí Minh, Biên Hoà, Vũng Tàu...), đồng bằng sông Cửu Long. Giữa các vùng có những chênh lệch kinh tế trầm trọng. Tây Nguyên thu nhập yếu kém nhất nước với tỉ lệ nghèo khó là 51.8%, tức cứ 2 người sống ở Tây Nguyên là có 1 người khốn khó. Kế tiếp là Trung du-miền núi bắc bộ và Bắc trung bộ cũng là hai vùng thu nhập kém. Tây Nguyên có nhịp độ giảm nghèo rất chậm: tỉ lệ người nghèo là 70% vào năm 1993, 52.4% vào năm 1998 và 51.8% vào năm 2002. Trong 4 năm từ 98 tới 2002, con số người nghèo gần như không giảm. Tình trạng nghèo đói cũng đáng quan ngại tại Bắc Trung Bộ và Trung du-miền núi Bắc Bộ, vì hai nơi này tập trung 28% dân số Việt Nam và 42% những người nghèo trong nước. Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, nơi sinh sống 43% dân số Việt Nam, cũng là nơi có tới 1 phần ba những người khốn khó.

    Khái niệm gần cạnh với nghèo đói là bất công xã hội, được đo lường qua chỉ số Gini. Chỉ số này từ 0 tới 1, càng gần 1 thì càng nói lên sự bất bình đẳng. Nói chung, chỉ số này cao tại các thành phố (0.35) so với các nông thôn (0.28). Cuộc thăm dò cho thấy là bất bình đẳng trong xã hội tại nước ta gia tăng không ngừng từ năm 1993. Chỉ số này cao nhất tại Đông Nam Bộ (0.38), kế đến là đồng bằng sông Hồng (0.36). Lạ lùng thay chỉ số này cũng cao ở Tây Nguyên (0.36), vùng nghèo nhất nước.

    Khi xét tới ảnh hưởng của sắc tộc thì nói chung mức chi tiêu của một gia đình thuộc các dân tộc thiểu số thấp kém khoảng 13% so với gia đình người Kinh hoặc gốc Trung Hoa. Nhưng đó là chưa kể số con trong gia đình thiểu số, thường thường đông hơn, trình độ học vấn của cha mẹ thường thường kém cỏi hơn. Các sắc tộc nghèo nhất là Ba-Na, Ê-Đê, Gia-Rai và Cô-Hô tại Tây Nguyên và người Mường và Mông ở vùng núi Bắc bộ. Tỉ số người nghèo là 14% cho những người gốc Trung Hoa, 22% cho người gốc Kinh, 50% cho người Tầy, 52% cho người Khờ-Me, 55% cho người Nùng. Tất cả những sắc dân khác như Thái, Đào, Mường...đều trên 70%, riêng người Gia-Rai, Mông và Ba-Na trên 90%.

    Tại Tây Nguyên, những người dân sắc tộc có nghèo đi, thu nhập sút giảm hẳn từ năm 1998. Trong cuộc thăm dò thực hiện tại Dak Lak, nhiều người dân thiểu số than phiền rằng họ không có thị trường để bán sản phẩm, hạ tầng cơ sở tồi tàn (dẫn thủy nhập điền, giao thông hụt hẫng), thiếu vốn, thiếu đất, thiếu cơ hội lao động, cán bộ làm việc không minh bạch và tham nhũng, các chính sách của nhà nước không hữu hiệu ngay từ cấp thấp nhất, không có sự điều hòa trong việc di dân, điều kiện thời tiết không thuận lợi, thiếu cơ hội để chăm lo sức khoẻ. Cấp lãnh đạo địa phương cũng nhìn nhận rằng nguyên nhân của sự đói khổ xuất phát từ thiếu đất, thiếu vốn, thiếu cơ hội lao động, nhưng cũng cho rằng người sắc tộc bị rủi ro trong đầu tư (giá cà-phê sút giảm trên thị trường quốc tế), thiếu kinh nghiệm làm ăn, già yếu, ỷ lại và đông con.

    Tình trạng nghèo khó của người dân sắc tộc càng nổi bật khi xét đến những tiêu chuẩn phi thu nhập như giáo dục hay sức khoẻ. 80% trẻ em sắc tộc được ghi danh vào tiểu học (so với 92% cho người kinh hoặc gốc Hoa) và sự chênh lệch càng gia tăng ở cấp trung học. Tại các nông thôn của Tây Nguyên có đến 45,3% trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng (so với 26% các em bé người Kinh hoặc Hoa).

    Nuớc ta có phát triển trong những năm gần đây nhưng những kết quả của phát triển đã không được chia sẻ đồng đều trong xã hội. Sự chênh lệch giữa những thành phần giàu nhất và nghèo nhất thêm sâu đậm, sự chênh lệch giữa các vùng trong nước ngày càng gia tăng. Các sắc tộc thiểu số không được dự phần vào sự tăng trưởng kinh tế và nếu tiếp tục theo đà này thì vào năm 2010 một nửa những người đói khổ sẽ thuộc các sắc dân thiểu số. Nhà nước không thể chỉ trông chờ vào tăng trưởng kinh tế để cải thiện đời sống của người dân thiểu số mà cần phải có những biện pháp tích cực hơn đi từ việc nâng cấp hạ tầng sơ sở tới việc tái phân phối ruộng đất, gia tăng việc cung cấp dịch vụ xã hội bằng tiếng địa phương. Bên cạnh đó là việc gia tăng sự tham gia của người dân sắc tộc vào việc lấy quyết định tại cấp địa phương và cải tổ guồng máy lãnh đạo địa phương tại những nơi có nhiều người sắc tộc cư ngụ. Chỉ những biện pháp này mới hàn gắn được hố sâu chia cách càng ngày càng sâu rộng giữa người dân sắc tộc với người dân gốc Kinh hoặc Hoa.

    Vấn nạn của nước ta không dừng lại ở những thành quả tương đối của Xóa Đói Giảm Nghèo. Chuyện bất bình đẳng cũng không gì mới lạ với dân ta. Ra đầu ngõ đã gặp, liếc sang nhà bên cạnh đã thấy. Nhưng khi bất công được nhìn từ khung cảnh vĩ mô của cả nước và cả dân tộc thì ta mới thấy được vấn nạn này sẽ là ngòi nỗ cho những bất ổn trầm trọng của xã hội trong tương lai.
    Cám ơn quí vị, xin mời vào trang sau đây:
  • NGỌN NẾN NHỎ
  • This page is powered by Blogger. Isn't yours?